Văn minh lúa nước ở Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ gắn với sản xuất nông nghiệp mà còn là nền tảng văn hóa – xã hội hình thành từ dòng sông, hạt lúa và đời sống cộng đồng. Trước tác động của biến đổi khí hậu và chuyển dịch sinh kế, việc giữ gìn bản sắc châu thổ đặt ra yêu cầu phát triển hài hòa giữa kinh tế, môi trường và các giá trị văn hóa.
AA
Ký ức sông nước trong đời sống văn hóa Nam Bộ
Theo GS. Chung Hoàng Chương, văn minh sông nước chính là nền tảng định hình con người miền Tây. Từ thượng nguồn đến hạ lưu, sông Mekong không chỉ mang phù sa mà còn tạo nên mạng lưới kênh rạch, lối giao thương, sinh kế và cách ứng xử “thuận thiên” được tích lũy qua nhiều thế hệ.
“Cư dân miền Tây biết dựa vào nước, sống với nước và giao thương bằng nước”, GS. Chung Hoàng Chương nhận định. Chính sự thích nghi linh hoạt với môi trường nước và đất ấy đã hình thành nên một hệ giá trị đặc thù: Hào sảng, cởi mở nhưng cũng bền bỉ và thấu hiểu tự nhiên.
Những bức hình về vẻ đẹp của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong lớp văn hóa nghề nghiệp, những giá trị ấy được lưu giữ bằng tay nghề và ký ức. Nghệ nhân Nguyễn Văn Tốt (Bảy Tốt), người gắn bó hơn nửa thế kỷ với nghề đóng xuồng ghe Bà Đài, kể lại hành trình giữ nghề trong bối cảnh vận tải thủy dần thu hẹp. Từ những chiếc ghe lớn từng xuôi ngược sông rạch, ông chuyển sang làm xuồng mô hình thu nhỏ, như một cách “giữ lại linh hồn sông nước”. Với nghệ nhân Bảy Tốt, mỗi chiếc xuồng không chỉ là sản phẩm thủ công mà còn là mảnh ký ức của cả một vùng văn minh đang lùi dần vào dĩ vãng.
Ký ức ấy hiện lên rõ nét trong câu chuyện lúa mùa của kỹ sư Lê Quốc Việt, người thường được gọi thân mật là Ông Tư lúa mùa. Ông đưa người nghe trở lại thời canh tác gắn chặt với con nước, với những tập tục sinh hoạt, cưới hỏi, lễ hội và không gian văn hóa giao thoa Khmer - Việt - Hoa. “Giữ lúa mùa không chỉ là bảo tồn một nguồn giống, mà là giữ cả hệ giá trị văn hóa, xã hội từng nuôi dưỡng nghĩa xóm giềng, tinh thần ‘tối lửa tắt đèn có nhau’”, kỹ sư Lê Quốc Việt chia sẻ.
Biểu diễn các loại hình diễn xướng dân gian mang đậm màu sắc Nam Bộ.
Nếu dòng sông và hạt lúa là nền tảng vật chất của văn minh châu thổ, thì văn chương và diễn xướng dân gian lại kết tinh chiều sâu tinh thần. Theo TS. Bùi Trân Phượng, điều này thể hiện rõ trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, nơi nghĩa khí Nam Bộ không chỉ nằm ở những nhân vật trung tâm như Lục Vân Tiên hay Kiều Nguyệt Nga, mà còn hiện diện ở những con người dân dã như ông Quán, tiều phu, ngư phủ, tiểu đồng - những con người bộc trực, trọng nghĩa, sẵn sàng cứu giúp kẻ gặp nạn mà không toan tính. Đó chính là “phần hồn Nam Bộ” được nuôi dưỡng từ đời sống sông nước.
Hình thức Nói Thơ Vân Tiên vừa nói vừa hát cho thấy cách người dân tiếp nhận văn học như một phần sinh hoạt cộng đồng, nơi triết lý đạo đức được truyền đi một cách gần gũi và bền bỉ. Sự kết nối ấy còn mở rộng sang các loại hình diễn xướng dân gian như Sắc bùa Phú Lễ (Bến Tre), mang âm hưởng rộn rã, gắn với ước vọng bình an, may mắn. Theo TS. Bùi Trân Phượng, chính môi trường sông nước, nơi con người phải nương tựa nhau để tồn tại đã bồi đắp tinh thần cộng đồng, nghĩa khí và niềm tin vào điều thiện.
Điệu múa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer.
Giữ bản sắc trong phát triển và biến đổi châu thổ
Từ góc nhìn khoa học, PGS.TS Lê Anh Tuấn phân tích lịch sử hình thành châu thổ với những đặc điểm vừa giàu phù sa vừa dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu. Ông nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa lịch sử, sinh thái, sinh kế và văn hóa, coi khả năng thích ứng của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long là chất liệu làm nên một nền văn minh độc đáo. Theo ông, bảo tồn bản sắc sông nước không thể tách rời việc phục hồi môi trường và phát triển sinh kế bền vững.
Bức tranh phát triển tiếp tục được mở rộng qua câu chuyện về giống lúa và khoa học nông nghiệp. Với kỹ sư Hồ Quang Cua, đó là hành trình lai tạo các giống lúa thơm chất lượng cao, trong đó ST25 là minh chứng tiêu biểu cho sự kết hợp giữa tri thức bản địa và khoa học hiện đại.
Trong khi đó, TS. Đỗ Khắc Thịnh và TS. Trần Ngọc Thạch nhấn mạnh yêu cầu đầu tư dài hơi, từ phòng thí nghiệm đến đồng ruộng nhằm nâng cao năng suất nhưng vẫn giữ phẩm chất “ngon và sạch”, không đánh đổi bản sắc lấy hiệu quả ngắn hạn.
Du khách nước ngoài thích thú tìm hiểu vùng đất, văn hóa và con người Nam Bộ.
Ở góc độ phát triển ngành hàng, PGS.TS Bùi Bá Bổng cho rằng chuỗi giá trị và thương hiệu gạo Việt chính là “chìa khóa để đi xa”. Cùng quan điểm đó, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhìn cây lúa như “ký ức văn hóa của dân tộc”, một chất liệu quan trọng để nhận diện bản sắc Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Văn minh lúa nước Đồng bằng sông Cửu Long không tồn tại như một thực thể tĩnh. Đó là hệ sinh thái văn hóa - xã hội, nơi tri thức bản địa, khoa học hiện đại, sinh kế và đạo lý cộng đồng không ngừng tương tác. Khi môi trường đổi thay, các lớp văn hóa ấy cũng chuyển dịch theo. Vấn đề đặt ra không phải là níu giữ quá khứ một cách bảo tồn hóa, mà là tìm cách tiếp nối những giá trị cốt lõi trong điều kiện mới.
Từ dòng Mekong, hạt lúa mùa, nghề ghe xuồng đến văn chương và diễn xướng dân gian, châu thổ phương Nam hiện lên vừa giàu trầm tích vừa giàu năng lực thích ứng. Những góc nhìn của các nhà khoa học, nghệ nhân và nhà quản lý không chỉ gợi lại ký ức mà còn chỉ ra hướng đi cho tương lai: Muốn giữ bản sắc sông nước, cần gìn giữ đồng thời môi trường, sinh kế và tinh thần cộng đồng - những yếu tố đã làm nên vẻ đẹp bền vững của văn minh lúa nước Nam Bộ.
Theo TTXVN
Mọi phản ánh, ý kiến, tin, bài và hình ảnh cộng tác của độc giả có thể gửi đến Báo An Giang theo địa chỉ: