Kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024

22/02/2024 - 20:33

Đối với Việt Nam, dù còn nhiều khó khăn song kinh tế năm 2023 đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, thách thức từ bối cảnh quốc tế cũng như hạn chế nội tại đang trở thành rào cản cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2024.

Kiểm tra sản phẩm ở Công ty TNHH Sankoh Việt Nam (doanh nghiệp 100% vốn đầu tư Nhật Bản) tại Khu công nghiệp Bờ Trái Sông Đà, tỉnh Hòa Bình_Ảnh: TTXVN

Kết thúc năm 2023, nền kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến khó lường và ẩn chứa nhiều bất ổn. Lạm phát tuy hạ nhiệt, nhưng vẫn neo ở mức cao, nhiều nền kinh tế lớn duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao; thương mại, tiêu dùng và đầu tư toàn cầu tiếp tục suy giảm; hàng rào bảo hộ, phòng vệ thương mại gia tăng... ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu. Đối với Việt Nam, dù còn nhiều khó khăn song kinh tế năm 2023 đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, thách thức từ bối cảnh quốc tế cũng như hạn chế nội tại đang trở thành rào cản cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2024.

Bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2023

Đà tăng trưởng và phục hồi kinh tế toàn cầu và ở một số nước lớn

Năm 2023, kinh tế toàn cầu phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Xung đột Nga - U-crai-na tiếp diễn, trong khi xung đột mới bùng phát ở Trung Đông, Biển Đỏ trong các tháng cuối năm. Tình trạng thời tiết cực đoan diễn ra ở nhiều nơi, hạn hán kéo dài trên phạm vi rộng, bão lũ, thiên tai ở các quốc gia làm cho sản xuất và tiêu dùng lương thực mất cân đối. Thị trường hàng hóa thế giới có nhiều biến động. Lạm phát tiếp tục neo ở mức cao, tăng trưởng thương mại yếu và niềm tin người tiêu dùng chậm phục hồi. Trong bối cảnh ấy, nhiều quốc gia duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt để ưu tiên kiềm chế lạm phát. Tổng cầu suy yếu, kinh tế tăng trưởng chậm ở nhiều nước, kể cả các nền kinh tế lớn trong khi thị trường tài chính tiền tệ, bất động sản tại một số nước tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh việc gia tăng các quy định về phát triển bền vững ảnh hưởng đến nhập khẩu, nhiều nước cũng gia tăng bảo hộ thương mại.

Trong những báo cáo mới nhất, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được các tổ chức quốc tế điều chỉnh so với dự báo trước đây, nhưng hầu hết dự báo đều thấp hơn tốc độ tăng trưởng năm 2022. Liên minh châu Âu (EU)(1) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,1%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5-2023, thấp hơn mức tăng trưởng 3,3% của năm 2022; Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)(2) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 3,0%, giữ nguyên so với dự báo tháng 7-2023, thấp hơn mức tăng trưởng 3,5% năm 2022; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)(3) nhận định kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng trưởng 2,9%, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9-2023 và thấp hơn mức tăng trưởng 3,3% năm 2022; Fitch Ratings (FR)(4) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 2,9%, cao hơn 0,4 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9-2023; Ngân hàng Thế giới (WB)(5) nhận định tăng trưởng toàn cầu đạt 2,1% năm 2023, giữ nguyên so với dự báo trong tháng 6-2023 và thấp hơn mức tăng 3,1% của năm 2022.

Tại Mỹ: Tình hình kinh tế Mỹ trong 3 quý đầu năm diễn biến theo chiều hướng tốt dần lên. Nền kinh tế đầu tàu thế giới tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất trong 2 năm qua vào quý III-2023, đạt mức tăng trưởng 4,9%, cao hơn nhiều so với mức 2,1% của quý liền trước đó. Thị trường lao động mạnh mẽ, yếu tố giúp cho tiêu dùng ổn định là động lực chính góp phần đem lại sự bền bỉ cho nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Tuy nhiên, sang quý IV-2023 chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) cho thấy khu vực sản xuất của Mỹ đang suy giảm. Do đó, nền kinh tế Mỹ có khả năng chững lại khi bước sang năm 2024. Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý IV-2023 dự báo đạt 2,6% so với cùng kỳ năm trước và cả năm ước đạt 2,4%.

Tại Trung Quốc: Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vẫn còn nhiều khó khăn trong năm 2023 khi đà hồi phục sau khi dỡ bỏ phong tỏa COVID-19 yếu hơn dự báo và khủng hoảng bất động sản ngày càng trầm trọng hơn. Trong mấy tháng gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã nỗ lực đẩy mạnh đầu tư công, cắt giảm nhẹ lãi suất, bơm tiền khối lượng lớn... Số liệu tháng 11-2023 cho thấy, chỉ số PMI thấp nhất kể từ tháng 12-2022 khi hoạt động sản xuất giảm tháng thứ 2 liên tiếp, trong khi khu vực dịch vụ tăng trưởng ít nhất trong vòng 11 tháng qua. Rủi ro giảm phát gia tăng khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm 0,5%, thương mại hàng hóa bất ổn khi xuất khẩu chỉ tăng nhẹ 0,5%, nhưng nhập khẩu vẫn đà giảm 0,6%. Dự báo tăng trưởng của Trung Quốc đang dần hồi phục trở lại với GDP quý IV-2023 đạt 1,1% so với quý trước (quý III tăng 1,3%) và 5,2% so với cùng kỳ năm trước để cả năm có thể đạt mục tiêu đề ra là 5%.

Tại Khu vực đồng tiền chung châu Âu (EURO): Đây là khu vực đã trải qua 4 quý tăng trưởng lên xuống bất định kể từ quý cuối năm 2022. Sang quý IV-2023, có dấu hiệu cho thấy nền kinh tế khu vực tiếp tục suy giảm. Chỉ số PMI nửa cuối năm 2023 cho thấy hoạt động sản xuất, kinh doanh suy giảm sang tháng thứ 7 liên tiếp, sản lượng sản xuất giảm 9 tháng liền, dù lạm phát đã giảm tốc mạnh, chi phí đầu vào giảm, nhưng giá bán vẫn tăng. Tổng sản phẩm quốc nội quý cuối cùng của năm có khả năng tiếp tục suy giảm đẩy kinh tế khu vực rơi vào suy thoái khi 2 quý liên tiếp có mức tăng trưởng âm.

Tại Nhật Bản: Trong ba quý đầu của năm 2023, GDP thực tế của Nhật Bản tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước, nhưng riêng quý III-2023, tăng trưởng kinh tế lại suy giảm 2,9% (quý I tăng 5%, quý II tăng 3,6%). Đây là quý suy giảm kinh tế đầu tiên với mức suy giảm mạnh nhất kể từ đỉnh điểm đại dịch COVID-19 vào quý II-2020, cho thấy sự mong manh của quá trình hồi phục trước rủi ro nảy sinh từ tình trạng lạm phát tăng và triển vọng kinh tế toàn cầu u ám. Thương mại hàng hóa cũng suy giảm, nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu. Tình hình sản xuất trong quý cuối cùng của năm 2023 cũng chưa mấy sáng sủa khi chỉ số PMI mấy tháng gần đây cho thấy sự gia tăng mạnh ở khu vực dịch vụ chỉ phần nào bù đắp cho sự sụt giảm nhanh hơn về sản lượng ở khu vực sản xuất. Dự báo, GDP quý IV-2023 có thể chỉ tăng nhẹ 0,1% so với quý trước và 0,2% so với năm 2022.

Thương mại toàn cầu giảm và triển vọng ảm đạm

Kim ngạch thương mại toàn cầu năm 2023 đạt xấp xỉ 30.700 tỷ USD, giảm 5% so với năm ngoái. Trong đó, thương mại hàng hóa giảm gần 2.000 tỷ USD, tương đương mức giảm 8%, song thương mại dịch vụ tăng khoảng 500 tỷ USD, tương đương mức tăng 7%. Dự báo triển vọng thương mại năm mới 2024 còn nhiều bất ổn trước những căng thẳng địa - chính trị dai dẳng, tình trạng nợ công cao ở nhiều nước đang phát triển và tăng trưởng kinh tế không ổn định lan rộng ở nhiều nền kinh tế sẽ tác động tiêu cực đến mô hình thương mại toàn cầu.

Giá hàng hóa và lạm phát

Trong năm 2023, hầu hết giá cả các loại hàng hóa về mức bình thường so với trước đại dịch COVID-19 mà chủ yếu do giá năng lượng giảm mạnh và tăng trưởng toàn cầu suy giảm cùng tâm lý lo ngại suy thoái kinh tế. So với cuối năm 2022, giá năng lượng giảm 8,2%, giá hàng hóa phi năng lượng tăng 1,7%, giá nguyên liệu thô chỉ tăng nhẹ. Giá kim loại công nghiệp tăng 2,7%, kim loại quý tăng 3,7%. Sau khi đạt đỉnh trong năm 2022, sang năm 2023, áp lực giá tiêu dùng toàn cầu theo xu hướng giảm dần. Chỉ số giá tiêu dùng toàn phần ở Mỹ giảm đều từ 6,5% trong tháng 1 xuống còn 3% hồi giữa năm và hiện neo ở mức 3,1%. Còn ở châu Âu, CPI lõi và toàn phần đến tháng 11 lần lượt là 3,6% và 2,4%, cùng giảm tốc nhanh so với tháng trước (4,2% và 2,9%) và đều thấp hơn dự báo (3,9% và 2,7%). Trung Quốc lại đang gặp khó khăn với tình trạng giảm phát mạnh hơn dự kiến, chỉ số CPI 3 tháng gần đây đều giảm (tháng 10 và 11-2023 là -0,2% và -0,5%). Với Nhật Bản, lạm phát lại đang được mong đợi tích cực do suốt cả giai đoạn 1990 - 2021, CPI bình quân của Nhật Bản chỉ là 0,1%, nhưng tính đến tháng 12-2023 CPI đã ở mức trên 3% trong 18 tháng liên tiếp, CPI lõi duy trì ở mức trên 4% trong 7 tháng liên tiếp và đều là những con số vượt mức lạm phát mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ).

Phản ứng chính sách tiền tệ của các ngân hàng Trung ương và các định chế tài chính lớn

Đến ngày 15-12-2023, thống kê các ngân hàng Trung ương trên thế giới có khoảng 160 lượt tăng lãi suất cơ bản, 72 lượt cắt giảm; lần lượt các con số này cho năm 2021 và năm 2022 là 113 lượt tăng, 14 lượt giảm và 367 lượt tăng, 17 lượt giảm. Hết quý III-2023, gần như tất cả ngân hàng Trung ương lớn đều ngừng tăng lãi suất cơ bản (ngoại trừ Ngân hàng Trung ương Ô-xtrây-li-a với đợt tăng lãi suất thêm 0,25 điểm % vào tháng 11-2023), nhưng vẫn giữ quan điểm chính sách tiền tệ thắt chặt khi lạm phát lõi vẫn cao và chưa có xu hướng giảm rõ rệt. Có thể thấy, chính sách thắt chặt tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã phần nào thành công trong việc kiềm chế lạm phát trong năm 2023. Trong các phiên họp chính sách cuối cùng của năm 2023, các nhà hoạch định chính sách của cả Fed và ECB bắt đầu đề cập đến việc nới lỏng tiền tệ, cắt giảm lãi suất trong năm 2024.

Riêng với Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) và Nhật Bản (BOJ), lựa chọn chính sách có phần khó khăn hơn. Tháng 10 vừa qua, BOJ cho phép lợi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm tăng vượt 1% - một động thái tiến tới kết thúc chính sách kiểm soát đường cong lợi suất áp dụng suốt 7 năm qua nhằm kiểm soát lãi suất dài hạn ở mức thấp. Trong bối cảnh đồng yên Nhật giảm giá mạnh, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản hồi phục yếu và diễn biến đảo chiều chính sách của Fed và ECB sắp tới là những yếu tố để BOJ cân nhắc khi điều chỉnh chính sách tiền tệ siêu lỏng đã áp dụng suốt 10 năm qua.

Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2023

Việt Nam bước vào thực hiện kế hoạch năm 2023 với cả cơ hội và khó khăn, thách thức. Bên cạnh việc xử lý các tác động, thách thức từ bối cảnh quốc tế, Việt Nam cũng phải nỗ lực xử lý, tháo gỡ những vấn đề tồn đọng, tích tụ từ nhiều năm trong nền kinh tế..., đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Tốc độ tăng GDP không đạt mục tiêu đề ra

Tăng trưởng GDP cả năm 2023 ước đạt khoảng 5,05% với xu thế tăng trưởng duy trì đà tăng dần qua từng quý (quý I tăng 3,41%, quý II tăng 4,25%, quý III tăng 5,47%). Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,83%, đóng góp 8,84% điểm tăng trưởng chung, tiếp tục là bệ đỡ của nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,74%, đóng góp 28,87%; khu vực dịch vụ tăng 6,82%, đóng góp 62,29%. Trong đó, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2023 chỉ tăng 3,02% so với năm trước, là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011 - 2023, đóng góp 1,0 điểm % vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ năm 2023 là 6,82% so với năm trước, cao hơn mức tăng 2,01% và 1,75% của các năm 2020 - 2021... Quy mô GDP năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD, GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 đạt thấp hơn so với mục tiêu Quốc hội đề ra từ đầu năm (tăng trưởng GDP năm 2023 khoảng 6,5%) bởi do các nguyên nhân chính: 1- Ngoại cầu suy yếu do lạm phát tăng nhanh trên toàn cầu khiến các nền kinh tế lớn liên tục tăng lãi suất để thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ, nhu cầu tiêu dùng và mở rộng đầu tư theo đó cũng suy giảm; 2- Cầu trong nước hồi phục chậm trên cả hai lĩnh vực tiêu dùng và đầu tư, biểu hiện qua các chỉ số tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng và tăng trưởng tín dụng đều đạt mức tăng thấp so với tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước.

Đầu tư công có nhiều điểm sáng

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 3.423,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với năm 2022. Trong đó, vốn khu vực nhà nước đạt 953,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,8% tổng vốn và tăng 14,6%; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.919,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 56,1% và tăng 2,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 550,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,1% và tăng 5,4%. Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước năm 2023 ước đạt 625,3 nghìn tỷ đồng, bằng 85,3% kế hoạch năm và tăng 21,2% so với năm trước. Trong bối cảnh đó, nỗ lực giải ngân nguồn vốn đầu tư công trong năm 2023 đã giúp duy trì tăng trưởng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, qua đó giúp đầu tư công trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế. Nhiều nỗ lực, giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án đầu tư công trọng điểm, liên vùng, các công trình, dự án có tác động lan tỏa lớn trong nửa cuối năm 2023 được Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương triển khai quyết liệt. Trong năm 2023, công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch đầu tư công được triển khai quyết liệt, với nhiều giải pháp cụ thể được ban hành kịp thời, hiệu quả. Kỷ luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu tư công được tăng cường, gắn trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan trong việc bảo đảm tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công.

Thu hút FDI vẫn ổn định trong bối cảnh bất ổn toàn cầu

Trong bối cảnh khó kha#n chung của nền kinh tế, FDI vẫn là điểm sáng đáng ghi nhạ#n. Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20-12-2023, bao gồm vốn đăng ký cấp mới đạt gần 20,2 tỷ USD tăng 62,2%, vốn đăng ký điều chỉnh tăng 14%; giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 8,5 tỷ USD, tăng 65,7%. Do đó, dù lượt giao dịch góp vốn, mua cổ phần giảm so với cùng kỳ, nhưng quy mô vốn góp lại tăng cao. Qua đó nguồn vốn FDI vào Việt Nam đạt hơn 36,61 tỷ USD, tăng trên 32% so với cùng kỳ năm 2022. Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam đến ngày 20-12-2023 ước đạt 23,2 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất từ trước đến nay.

Hoạt động xuất, nhập khẩu

Cả năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 683 tỷ USD, giảm 6,6% so với năm trước. Nhìn chung, đây là mức suy giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2023 ước đạt 355,5 tỷ USD, giảm 4,4% so với năm trước, cụ thể khu vực kinh tế trong nước đạt 95,55 tỷ USD, giảm 0,3%, chiếm 26,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 259,95 tỷ USD, giảm 5,8%, chiếm 73,1%. Nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 313,73 tỷ USD, chiếm 88,3% về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 327,5 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 117,29 tỷ USD, giảm 7,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 210,21 tỷ USD, giảm 9,8%. Nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt khoảng 307 tỷ USD, chiếm gần 94% tổng giá trị. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2023 ước tính xuất siêu 28 tỷ USD (năm 2022 xuất siêu 12,1 tỷ USD)(6).

Hoạt động của khu vực doanh nghiệp

Trong năm 2023, cả nước có gần 160.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là trên 1.521 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.052,6 nghìn lao động, tăng 7,2% về số doanh nghiệp - gấp 1,2 lần mức bình quân giao đoạn 2017 - 2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023. Tổng số vốn đăng ký mới của doanh nghiệp gia nhập thị trường có xu hướng tăng dần qua các quý. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2023 là 3.557,9 nghìn tỷ đồng, giảm 25,3% so với năm trước, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của hơn 46 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động đăng ký tăng vốn là 2.036,6 nghìn tỷ đồng, giảm 35,8%.

Tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 172.578 doanh nghiệp, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm 2022 - cao nhất kể từ năm 2017 đến nay. Trong đó, phần lớn chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (khoảng trên 51%). Bình quân một tháng có 14,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường(7).

Lạm phát CPI và lạm phát cơ bản thấp hơn nhiều so với mục tiêu chính sách

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2023 ước tăng khoảng 3,3% so với năm 2022, tương đương với tốc độ tăng CPI bình quân của năm 2022 so với năm 2021. Tuy nhiên, khác với năm trước, khi chỉ số giá nhóm xăng dầu, giá gas trong nước là yếu tố chủ chốt làm tăng CPI trong năm 2022, nhóm hàng này đã giảm khá mạnh trong năm 2023, góp phần làm CPI chung giảm khoảng 0,6 điểm % trong năm 2023. Ở chiều ngược lại, hai chỉ số giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng và chỉ số giá nhóm giáo dục tạo thành 2 yếu tố chính làm tăng CPI tổng thể, tác động làm CPI ước tăng khoảng 1,7% trong năm 2023. Bên cạnh đó, chỉ số giá nhóm điện sinh hoạt tăng 4,55% cũng đóng góp làm CPI tổng thể tăng khoảng 0,15 điểm %; chỉ số giá nhóm lương thực tăng khoảng 6,2% tác động làm CPI chung tăng 0,23 điểm %.

Lạm phát cơ bản bình quân năm 2023 tăng khoảng 4,2% so với năm 2023 với xu thế giảm liên tục kể từ đầu năm. Nguyên nhân chủ yếu khiến mức lạm phát cơ bản cao hơn mức tăng lạm phát tổng thể bình quân do giá xăng dầu bình quân trong nước 11 tháng năm 2023 giảm khoảng 12% so với cùng kỳ năm trước, giá gas giảm 7,5% là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI, nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản. Nhìn chung CPI năm 2023 tăng thấp hơn nhiều do với mục tiêu đề ra (dưới 4,5%) chủ yếu do yếu tố cầu chậm hồi phục.

Tăng trưởng tín dụng tiếp tục chạm

Năm 2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 0,5 - 2%/năm, đồng thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế phục hồi sản xuất, kinh doanh. Sau lần điều chỉnh cuối cùng, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng giảm từ 5,5%/năm xuống còn 5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ mức 3,5%/năm xuống 3%/năm. Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới một tháng giữ ở mức 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5%/năm xuống 4,75%/năm. Đồng thời, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế giảm từ mức 4,5%/năm xuống chỉ còn 4%/năm. Với những động thái giảm lãi suất điều hành, diễn biến của lãi suất trong năm 2023 đã giảm mạnh. Việc giảm lãi suất điều hành tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động, từ đó giảm lãi suất cho vay. Tính đến cuối tháng 12-2023, mặt bằng lãi suất cho vay toàn hệ thống giảm từ 1 - 2% so với đầu năm. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng với chi phí lãi vay thấp hơn để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng vẫn thấp, theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến 13-12-2023, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống mới tăng khoảng 9,87% so với đầu năm, thấp hơn nhiều so với mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 14 - 15% đề ra cho năm 2023. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng tín dụng không đạt như kỳ vọng, như đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng giảm dẫn đến cầu tín dụng của người dân, doanh nghiệp giảm theo; khách hàng có nhu cầu vay vốn, nhưng lại không đáp ứng được điều kiện vay; thị trường bất động sản khó khăn dẫn đến khả năng hấp thụ tín dụng của lĩnh vực này giảm...

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024

Năm 2024, kinh tế Việt Nam được dự báo tiếp tục gặp thuận lợi và khó khăn song hành. Rào cản lớn nhất là tác động tiêu cực từ bên ngoài (nhất là đà tăng trưởng chậm lại của Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản) và tình trạng chậm thực thi công vụ có thể vẫn diễn ra do một số nguyên nhân. Trong tình hình đó, dự báo kinh tế Việt Nam 2024 sẽ có 2 kịch bản.

Kịch bản 1, kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi chậm, lạm phát neo cao, các nước chưa hạ lãi suất ở quy mô lớn, chuỗi cung ứng hàng hóa tiếp tục đối mặt với gián đoạn nghiêm trọng ở một số tuyến vận tải.

Kịch bản 2, giữ nguyên hầu hết giả thiết như trong kịch bản 1, chỉ điều chỉnh GDP của thế giới tăng 3,2%; tổng phương tiện thanh toán tăng 10%; tín dụng tăng 16%; giá nhập khẩu hàng hóa giảm 5%; tỷ giá VNĐ/USD của ngân hàng thương mại tăng 2%; đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo,...) và cải cách thể chế mạnh mẽ giúp nâng cao chất lượng tăng trưởng, trong đó có năng suất lao động.

Một số khuyến nghị chính sách

Đổi mới, cải cách nền tảng kinh tế vi mô

Thứ nhất, rà soát, đánh giá kết quả thực hiện, đề ra các giải pháp cụ thể mới để triển khai các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển vùng và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, tiếp tục hướng dẫn, tổ chức triển khai hiệu quả các luật căn bản của thể chế kinh tế thị trường, như Luật Đất đai; Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Nhà ở; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Đấu thầu; Luật Quản lý nợ công; Luật Đầu tư công; Luật Cạnh tranh; Luật An ninh mạng; Luật Giao dịch điện tử, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,...

Ổn định kinh tế vĩ mô

Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng Chương trình tổng thể về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2024 - 2025.

Thứ hai, cần quan tâm đúng mức đến củng cố, ổn định kinh tế vĩ mô, giữ dư địa cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, vận dụng các chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt theo các kịch bản để ứng phó với các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới và khu vực.

Thứ ba, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các lĩnh vực theo hướng đa dạng hóa, tăng cường năng lực nội tại và sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế và thương mại thế giới.

Chính sách tiền tệ

Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, đồng bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.

Thứ hai, điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, cân đối vĩ mô và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Truyền thông về định hướng ưu tiên bảo vệ giá trị đồng VNĐ, không phá giá VNĐ để hỗ trợ xuất khẩu. Theo dõi sát diễn biến tỷ giá đồng USD, NDT, Euro, Yên Nhật cũng như giá cả một số mặt hàng quan trọng trên thị trường thế giới để điều hành tỷ giá gắn với các công cụ chính sách khác một cách linh hoạt, chặt chẽ nhằm hạn chế tác động đối với lạm phát và môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam.

Thứ ba, nghiên cứu, tham vấn các ngân hàng thương mại về khả năng tiếp tục giảm lãi suất cho vay với các lĩnh vực ưu tiên. Rà soát, đánh giá tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất để đề ra các giải pháp điều hành tín dụng phù hợp.

Thứ tư, điều hành linh hoạt thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại để hỗ trợ cho hoạt động tín dụng, phát hành trái phiếu chính phủ, phòng ngừa và ứng phó với biến động của dòng vốn đầu tư gián tiếp và kiều hối.

Thứ năm, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, điều kiện để tạo điều kiện thuận lợi cho tiếp cận tín dụng của nền kinh tế, đặc biệt là với các lĩnh vực ưu tiên.

Chính sách đầu tư

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ triển khai Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị, “về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030” và truyền thông về định hướng thu hút FDI trong bối cảnh mới.

Thứ hai, nghiên cứu, ban hành chiến lược, các biện pháp thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp nước ngoài, trên cơ sở không trái với cam kết và thông lệ quốc tế, có sự đồng thuận của nhà đầu tư./.

Theo Tạp Chí Của Ban Tuyên Giáo Trung Ương