Đồng chí Trần Tuấn Anh truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN
Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết, cho đến trước khi ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, Đảng vẫn chưa có nghị quyết riêng về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã dành nhiều thời gian thảo luận kỹ lưỡng, tâm huyết và thống nhất cao ban hành Nghị quyết về "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" (Nghị quyết số 29-NQ/TW). Đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
“Nghị quyết là cơ sở, căn cứ chính trị hết sức quan trọng trong việc định hướng những tư duy mới, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp mới nhằm tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
9 kết quả nổi bật sau 10 năm công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Đánh giá tình hình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong 10 năm qua, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nêu rõ, Nghị quyết số 29 đã khái quát thành 9 kết quả đạt được rất quan trọng.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm trong 10 năm qua, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỉ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020. Cơ cấu kinh tế vùng chuyển đổi theo hướng tích cực, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng và theo hướng tăng cường liên kết, kết nối vùng, các tiểu vùng, bước đầu gắn kết với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỉ trọng của ngành khai khoáng, tăng nhanh tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy tăng trưởng ngành nông nghiệp ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại.
Thứ năm, ngành dịch vụ phát triển mạnh, theo hướng hiện đại, đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Các phương thức, mô hình kinh doanh trên thị trường xuất hiện, được đổi mới theo hướng văn minh hiện đại, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu, đứng vị trí thứ 6 trong nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu.
Thứ sáu, đô thị hóa tăng nhanh, không gian đô thị được mở rộng, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ bảy, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ, hiệu quả hơn, chất lượng được nâng cao, tạo không gian phát triển, thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tám, phát triển văn hóa, xã hội, con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Thứ chín, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Việt Nam đã và đang trở thành thành viên có trách nhiệm, nỗ lực tham gia góp phần tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh kết quả đạt được, Nghị quyết cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta thời gian qua. Đó là mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 không hoàn thành với nhiều tiêu chí không đạt; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình; nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động thấp và chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự chủ thấp…
Làm rõ nội hàm công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh cho biết, trên cơ sở đánh giá, nhận định về bối cảnh, tình hình quốc tế và trong nước, đồng thời phân tích điều kiện, tình hình cụ thể của Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, thống nhất các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Theo đó, về quan điểm, Nghị quyết đã đưa ra 5 nhóm quan điểm chỉ đạo trong thời gian tới.
Nhóm quan điểm thứ nhất, làm rõ nội hàm/nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”; đồng thời nhấn mạnh “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
“Đây là điểm mới được nhấn mạnh trong quan điểm lần này, đó là gắn quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với xây dựng nền kinh tế, quốc gia độc lập tự chủ, dựa trên nội lực của đất nước, coi nội lực là quyết định”, đồng chí Trần Tuấn Anh cho biết.
Nhóm quan điểm thứ hai, nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt của Đảng luôn lấy con người làm trung tâm, làm chủ thể, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực cho sự phát triển, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Phương Hoa/TXVN
Nhóm quan điểm thứ ba, làm rõ nội dung và yêu cầu trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở không đồng nhất công nghiệp hóa là con đường duy nhất để xây dựng nước công nghiệp và không đồng nhất công nghiệp hóa với phát triển công nghiệp.
Nhóm quan điểm thứ tư, nhấn mạnh lộ trình, bước đi trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xác định các lĩnh vực ngành nghề cần ưu tiên phát triển đặt trong mối quan hệ tổng thể với yêu cầu tập trung về nguồn lực thực hiện.
Nhóm quan điểm thứ năm, đặt ra yêu cầu trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cụ thể là: “Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ tri thức và doanh nhân Việt Nam”.
Xác định mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa
Bám sát các quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là: “Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống của nhân dân được nâng cao…”; tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á”.
Để cụ thể hóa mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Nghị quyết đã đề ra 7 nhóm chỉ tiêu chính với 25 chỉ tiêu cụ thể, trong đó đặt mục tiêu GDP bình quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD; thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đạt trên 7.000 USD. Nghị quyết cũng đề ra 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu bao phủ những vấn đề lớn từ đổi mới tư duy, nhận thức, cho đến hoàn thiện thể chế, chính sách và giải quyết những điểm nghẽn, khắc phục những hạn chế trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua.
Theo TTXVN