Góc làm việc về đêm của ông Hiền
Lựa chọn giống lúa thuần chủng và khử đực cho lúa
Ông có biệt tài xác định chất lượng đất bằng cách nếm
Chiến tranh, nghèo khó, nên ông chỉ học đến lớp 6. Có 5 công đất trong tay, ông sản xuất trật vuột, nghèo vẫn hoàn nghèo. Trung tâm Khuyến nông, Hội Nông dân địa phương vận động ông tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật thâm canh, phòng trừ dịch hại, “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”… Năm 2004 đánh dấu bước ngoặt lớn nhất trong đời: ông được tham gia lớp chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn nông dân kỹ thuật lai tạo giống lúa, trong thời gian 3 tháng. Lớp hơn 30 người, chỉ mình ông tiên phong sử dụng mấy công đất nhà để thử nghiệm lai tạo, góp phần xã hội hóa giống lúa cộng đồng. Dần dần, ông được tạo điều kiện học thêm nhiều khóa tập huấn nâng cao.
Đã tiếp cận kiến thức khoa học, làm được nhiều chuyên đề, đề tài nghiên cứu khoa học, ông mạnh dạn thử nghiệm trên cây lúa hoang dại. Ông tìm gene tiềm ẩn của chúng về sức sống mãnh liệt, chống chịu sâu bệnh, thích ứng với môi trường, đồng thời loại bỏ khuyết điểm không cho năng suất của chúng. Những ưu điểm của loài hoang dại được chuyển vào cho cây lúa trồng. Vậy là giống TC2, TC4, TC6 ra đời, có khả năng chống rầy, chống đổ ngã, vượt trội hơn hẳn giống lúa đang được sử dụng phổ biến lúc bấy giờ. Mỗi vụ mùa, ông chắt chiu mấy trăm kg lúa giống trồng được, đưa bà con đem về trồng thử, không thu lại đồng bạc nào.
Nhưng mọi thứ trong ông vẫn còn mơ hồ, chưa được định hình rõ. Năm 2009, tình cờ ông nghe trên phương tiện thông tin đại chúng rằng thời gian tới, ĐBSCL sẽ có tình trạng xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu khá nặng nề. Ông chợt nhận ra mình phải làm gì: tìm cách lai tạo cho bằng được giống lúa chịu hạn mặn. Nghĩ là làm, ông nhờ người tìm lúa ma ở tận U Minh Thượng (Kiên Giang) đem về, theo dõi đặc điểm của nó, tiến hành lai tạo. Ban đầu, ông chỉ thu lại một tổ hợp lai biến dị, không hề có lợi cho chúng, cho môi trường và nông dân. Suy nghĩ thời điểm đó của ông là tiêu diệt chúng để tránh lây lan sau này. Được sự góp ý của một giáo sư chuyên ngành, ông quyết định giữ lại chúng, đồng thời kỳ công lai tạo với nhiều giống khác, để ra giống TC7 chịu được mặn. Giờ nghĩ lại, ông còn toát mồ hôi. Giả sử, ông không giữ lại tổ hợp lai biến dị kia, chắc chắn TC7 sẽ khó ra đời. Đúng là trong cái rủi có cái may!
Càng làm càng hăng, ông tạo ra đủ giống lúa, với các đặc tính nổi trội khác nhau. Không biết bao nhiêu đêm ông đã thức trắng, ngồi tỉ mẩn lựa từng hạt lúa, nâng niu chúng như nâng niu chính tâm huyết của mình. Để có một giống lúa mới ra đời, ông nghiên cứu thử nghiệm nhiều lần, sơ sơ… 3 năm mới xong. Sau 3 năm nếu không thành công, thì chỉ có nước làm lại từ đầu. Nhưng trong 16 năm, ông lại lai tạo hơn 50 giống lúa, đều do ông “liều ăn nhiều”, tạo ra hàng chục tổ hợp lai cùng lúc, nâng xác suất thành công lên cao hơn.
Nói về chuyện tên giống lúa, nhiều người sẽ thắc mắc: vì sao 30 giống lúa đầu tiên, ông lại đặt tên TC (Tân Châu), mà không phải là SH (Sĩ Hiền) như 20 giống sau này? Ông giải thích rất đơn giản: “Khi làm ra được thành quả đầu tiên, tôi gửi chúng cho Trung tâm Khuyến nông tỉnh, lấy tên quê hương - nơi đầu tiên hỗ trợ tôi tập huấn, nghiên cứu khoa học – đặt cho chúng. Giữa các thời điểm chuyển giao đề án nông nghiệp, TC30 là dấu mốc chính thức kết thúc chuỗi giống TC. Từ đó về sau, tên của tôi mới gắn liền với giống lúa do mình tạo ra, bắt đầu từ SH31 đến SH50. Tôi mong muốn, bà con nào đã từng sản xuất các giống lúa TC, khi tiếp cận giống lúa SH, sẽ hiểu được chỉ cùng 1 tác giả lai tạo”.
Ông thường tự giễu rằng, ông không phải là “nhà khoa học”, mà là “lều khoa học”, hoặc “liều khoa học”. Xuất phát điểm rất thấp, ông nghiên cứu lai tạo giống lúa bằng cảm tính và các giác quan của mình. Để tìm hiểu thực tế, ông đến nhiều cánh đồng hạn mặn khắp nơi trong cả nước. Nhưng các công nghệ, thiết bị trong nghiên cứu khoa học chưa có nhiều, bản thân ông không đủ điều kiện tiếp cận. Vậy là, ông dùng miệng nếm thử từng mẫu đất, mẫu nước. Vị chát, vị chua ngập tràn trong miệng, nhưng lại giúp ích cho ông phân biệt chất lượng đất. Nếm mãi thành quen, sau 5-6 năm, ông đủ kinh nghiệm để xác định độ pH, độ mặn, natri tồn đọng trong đất gần chính xác với thiết bị đo đạc chuyên dụng (chỉ lệch 1-2 phần ngàn). Cứ thấy bóng áo trắng gầy còm, lưng cong của ông trên ruộng, người ta lại biết ngay “lão Hiền” đang nghiên cứu đất. Gần đây, được một số viện nghiên cứu, bạn bè hỗ trợ công cụ, thiết bị đo lường, ông đã không còn phải nếm đất nữa. Nhưng hôm sang Hòn Đất (Kiên Giang), ông khiến chúng tôi mắt tròn mắt dẹt khi thể hiện lại kỹ năng phân tích chất lượng đất này. Con số độ mặn ông đưa ra sai lệch không nhiều so với bút đo, thậm chí ông còn có thể phân tích sâu hơn các lớp đất từ quan sát bằng mắt thường.
Với những đóng góp lớn lao trong nghiên cứu, lai tạo giống lúa, ông Hiền nhận được rất nhiều bằng khen các cấp, từ Trung ương đến địa phương, trở thành điển hình tiên tiến ở các lĩnh vực. Người ở xa, chưa từng tiếp xúc với ông, nghĩ chắc mẫm ông giàu có lắm, biết bao giống lúa tốt được đưa nhân rộng ở nhiều cánh đồng như thế cơ mà! Nhưng ông vẫn như trước kia, miệt mài vào từng bông lúa, mặc kệ chiếc áo mòn vai sờn rách, mặc kệ cả tiếng chê khen của người đời. 10 năm trở lại đây, những thành quả ông nghiên cứu ra được, hễ giúp ích cho nông nghiệp, nông dân, ông chia sẻ toàn bộ, không giữ lại gì riêng mình. “Nhiều công ty ngỏ lời muốn nhượng quyền một số giống lúa (vài trăm triệu đồng cho 1 giống lúa), nhưng tôi thẳng thừng từ chối khi biết được họ muốn độc quyền kinh doanh thu lợi cao, thu lợi từ nông dân mình. Đó là điều tôi đại kỵ. Chính vì vậy, nhiều người cho rằng tôi gàn dở, lập dị. Nhưng họ đâu hiểu được, tôi là người sống trong cộng đồng, nên phải có trách nhiệm vì cộng đồng, không thể vì lợi ích cá nhân hay một tổ chức nào. Đã lai tạo giống lúa vì mục đích phục vụ bà con nông dân, mà lại đi bán lúa giá cao, thì làm sao nông dân tiếp cận được lúa?” – ông Hiền tâm sự.
Hôm ấy, sau một ngày đi xa mệt nhoài, ông trở về với căn nhà đơn sơ, cũ mốc của mình. Khi ánh sáng vàng nhạt hắt lên vách gỗ, ông lật giở cuốn “gia phả”, trong đó ghi chép “ngày sinh tháng đẻ”, “khai sinh” của từng “đứa con” ông lai tạo ra. Đó là gia tài ông quý nhất, dành non nửa cuộc đời chắt chiu, dành dụm, để rồi lại dâng tặng cho cuộc đời…
GIA KHÁNH (còn tiếp)