Đó là nội dung được đưa ra thảo luận tại tọa đàm “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng” do Tạp chí Công thương tổ chức ngày 14/11, tại Hà Nội.
Trong kỷ nguyên số, các quốc gia phát triển về khai khoáng trên toàn cầu đang trải qua giai đoạn đổi mới cấu trúc sâu rộng, chuyển mình từ cơ giới hóa đồng bộ sang mỏ số, mỏ thông minh với mức độ tích hợp dữ liệu và điều khiển rất cao. Bối cảnh này đặt ra yêu cầu cho ngành khai khoáng Việt Nam phải có những đánh giá tổng thể và định ra chiến lược phát triển đúng đắn.
Tại Tọa đàm, PGS, TS Phùng Mạnh Đắc, Tổng Thư ký Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam nhận định: Đối với các khoáng sản có quy mô trữ lượng lớn như than, bô xít, đồng, sắt, Việt Nam đã có ngành công nghiệp khai khoáng và đạt được những bước khởi đầu vững chắc để tiến tới xây dựng mỏ thông minh. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đó là mức độ cơ giới hóa hầm lò thấp, tỷ lệ khai thác bằng cơ giới hóa chỉ chiếm khoảng 13-15%.

PGS, TS Phùng Mạnh Đắc, Tổng Thư ký Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt Nam.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp khai khoáng vẫn đang sử dụng công nghệ cũ, quy mô nhỏ, gây tổn thất tài nguyên và tác động tiêu cực đến môi trường. Đặc biệt, việc sử dụng ô tô vận tải lớn bằng dầu diesel tại các mỏ lộ thiên là nguồn phát thải lớn.
Chính vì vậy đổi mới và hiện đại hóa công nghệ được xem là một trong những trụ cột quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh của ngành công nghiệp khai khoáng.
TS Đào Duy Anh, Phó Cục trưởng Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và khuyến công (Bộ Công thương) cho biết, Chính phủ đã phê duyệt Đề án đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành khai khoáng tại Quyết định 259/QĐ-TTg ngày 22/2/2017. Sau hơn 8 năm triển khai Đề án 259, ngành khai khoáng đã có chuyển biến rõ rệt, điển hình là sự thay đổi trong tư duy của các nhà quản lý. Lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận thức rõ đổi mới và hiện đại hóa công nghệ là nhiệm vụ hàng đầu.
Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản đã vươn tới trình độ khu vực, ví dụ như chế biến bô xít, quặng, đồng. Trong khai thác, chế biến dầu khí, Việt Nam đã tự nghiên cứu, chế tạo và đưa vào thực tế các giàn khoan nước sâu. Điển hình, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam là một trong những đơn vị đứng đầu ứng dụng công nghệ tự động hóa, cơ giới hóa và chuyển đổi số trong khai thác hầm lò. Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đã chuyển toàn bộ lò từ thủ công sang chống bằng vì chống thủy và đầu tư các dây chuyền cơ giới hóa đào lò, tự động hóa các khâu điều khiển tập trung về khí, gió, băng tải, trạm bơm nước.

TS Đào Duy Anh, Phó Cục trưởng Đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh và khuyến công (Bộ Công thương).
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu phát triển xanh và bền vững, PGS, TS Phùng Mạnh Đắc cho rằng các doanh nghiệp cần đẩy mạnh chuyển đổi số, tự động hóa Mỏ thông minh lộ thiên, hầm lò, nhà máy tuyển; Chuyển đổi phương tiện vận tải sử dụng dầu diesel sang pin điện và pin nhiên liệu, dần hướng tới chuyển đổi xanh. Chuyển đổi toàn bộ sang khấu than bằng cơ giới hóa thay vì nổ mìn, thay vận tải ô-tô bằng băng tải dốc. Đồng thời, khai thác tiềm năng giảm tổn thất, tăng năng suất bằng công nghệ chống vì neo, khai thác không trụ bảo vệ.
TS Đào Duy Anh cũng cho rằng cần có chính sách hỗ trợ như: Hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp cho từng loại hình doanh nghiệp; Thúc đẩy hợp tác quốc tế để tiếp thu, làm chủ công nghệ mới; Hình thành Trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm để chia sẻ hạ tầng cho các doanh nghiệp nhỏ. Ngoài ra, cần có cơ chế đặt hàng theo kết quả đầu ra, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu.
Các ý kiến cũng đánh giá, một trong những khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là việc đưa kết quả nghiên cứu khoa học từ quy mô pilot đến triển khai công nghiệp, do vốn đầu tư ban đầu rất cao và thủ tục nghiệm thu còn phức tạp. Thêm vào đó, rủi ro vận hành và trách nhiệm về môi trường khiến nhiều doanh nghiệp ngại đầu tư, chi phí xử lý chất thải làm giá thành sản phẩm khó cạnh tranh.
Theo đó, các chuyên gia kiến nghị nhà nước cần có các chính sách như: Quỹ đồng tài trợ cho thử nghiệm hiện trường và bảo lãnh rủi ro kỹ thuật; Ưu đãi về thuế tín dụng đối với các dây chuyền chế biến sâu và đặc biệt là dây chuyền chuyển đổi xanh; Cho phép hoạch toán chi phí công nghiên cứu vào trong giá thành sản phẩm để khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo.
Sự đồng hành của Nhà nước trong việc hoàn thiện cơ chế, nỗ lực tự thân của doanh nghiệp và trí tuệ của đội ngũ nhà khoa học sẽ là nền tảng vững chắc để ngành khai khoáng Việt Nam hiện đại hóa thành công, đóng góp tích cực vào cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Theo Nhandan.vn




Đọc nhiều