Bà Lê Thị Na (TP.HCM) hỏi.
 |
| Luật gia Phạm Văn Chung. |
* Luật gia Phạm Văn Chung (Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi) tư vấn như sau:
- Theo quy định tại điều 562 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Tại khoản 1 điều 57 Luật Công chứng năm 2024 quy định: "Trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì bên ủy quyền được yêu cầu công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng mà mình lựa chọn chứng nhận việc đề nghị ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền được yêu cầu công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng mà mình lựa chọn chứng nhận tiếp vào bản gốc của hợp đồng ủy quyền đó để xác nhận việc chấp nhận ủy quyền, hoàn thành việc công chứng hợp đồng ủy quyền và gửi 01 bản gốc của văn bản công chứng đó cho tổ chức hành nghề công chứng mà bên ủy quyền đã công chứng để lưu hồ sơ công chứng.
Văn bản công chứng hợp đồng ủy quyền có hiệu lực kể từ thời điểm được công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng mà bên ủy quyền và bên được ủy quyền yêu cầu công chứng ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng đó.
Trường hợp là văn bản công chứng điện tử thì phải có chữ ký số của công chứng viên và chữ ký số của các tổ chức hành nghề công chứng đó".
Như vậy, theo quy định trên thì bà và cháu bà có thể không cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng vẫn thực hiện được việc ủy quyền.
Theo đó, bà (bên ủy quyền) yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi bà cư trú công chứng hợp đồng ủy quyền; còn cháu bà (bên được ủy quyền) thì yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi người đó cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền.
Theo Tuoitre.vn