Phất lên từ bãi bồi
Ông Võ Văn Sơn (64 tuổi, ngụ ấp Sáu Biển, xã Đông Thái) được nhiều người biết đến bởi sự kiên trì giữ nghề nuôi sò, vẹm nơi bãi bồi, thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng/năm. Hơn 40 năm theo nghiệp biển có lúc thăng lúc trầm, ông Sơn từng phải bán bãi trong vì cạn kiệt, rồi thuê lại 30ha đất bãi ngoài để tiếp tục nuôi sò. “Nghề này trúng hay thất đều nhờ trời. Nhưng nếu không kiên nhẫn, không giữ rừng, giữ bãi thì chẳng còn gì để mà làm”, ông Sơn tâm sự.

Ông Võ Văn Sơn kiểm tra độ lớn của vẹm xanh.
Vụ sò năm nay, ông Sơn đang rải 5 tấn sò giống trên bãi, một năm sau sò lớn và cho thu hoạch. Cùng với sò, con hến cũng mang lại nguồn thu đáng kể cho gia đình ông Sơn và nhiều hộ nhận giao khoán rừng phòng hộ ven biển. “Có năm, hến trong bãi sinh sôi nhiều, tôi chẳng tốn vốn mà bán cũng được mấy trăm triệu”, ông Sơn kể. Hến được thương lái mua về làm thức ăn cho tôm hùm, cua biển. Chỉ sau 4 tháng, một sọt hến giống có thể cho ra gấp 3 - 5 lần.
Trong chòi canh được dựng kiên cố trên bãi, ông Sơn bảo cái nghề nuôi sò, nuôi vẹm ở bãi bồi ven biển này cực lắm, nhưng mà vui. Có khi trúng mùa thu tiền tỷ chẳng khó, cũng có năm trắng tay vì sâu biển tấn công sò. Những lúc rảnh rỗi, những người canh bãi sò như ông đi giăng lưới bắt được cá ngát, cá úc, thậm chí cá rún, đem bán kiếm được kha khá. “Bãi biển này mỗi năm bồi thêm, trời cho mình miếng ăn nếu mình biết giữ lấy”, ông Sơn nói.

Người dân ấp Sáu Biển nuôi sò trên bãi bồi ven biển, kết hợp trồng và giữ rừng phòng hộ.
Nghề nuôi sò, hến, vẹm xanh nơi đây vốn gắn bó với tự nhiên. Mùa thuận, nước trong, ít ô nhiễm, sò sẽ lớn nhanh. Nhưng cũng có khi thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là sâu biển hoành hành, chỉ vài ngày có thể ăn sạch hàng trăm tấn sò. Vậy nên, người nông dân nơi này luôn tâm niệm phải “làm bạn với rừng”, nhờ rừng chắn sóng, giữ phù sa, bảo vệ bãi nuôi.
Ông Sơn cho biết, nhiều năm nay gia đình ông còn kết hợp nuôi vẹm xanh. Có năm, từ 3.000 cọc tràm, ông thu đến 200 tấn vẹm, bình quân thu lãi hàng trăm triệu đồng. “Vẹm xanh nuôi bọc vèo hiệu quả lắm, chỉ cần nhà nước hỗ trợ thêm vốn, bà con sẽ mạnh dạn làm lớn”, ông Sơn nói.
Trên vùng biển bồi nơi cực Tây Nam Tổ quốc, những người như ông Sơn vẫn ngày ngày bám chòi, giữ bãi, nuôi sò, gây giống. Họ biết nghề này còn nhiều rủi ro, giá cả bấp bênh, dịch bệnh rình rập. Nhưng bằng sự sáng tạo và cần mẫn, họ đã và đang biến những bãi bồi đầy phù sa thành nguồn sinh kế bền vững cho gia đình và cộng đồng.
Nuôi cá lồng bè thu tiền tỷ
Không dừng lại ở bãi bồi, An Giang còn có lợi thế nuôi cá lồng bè quanh các đảo, như: Nam Du, Hòn Tre, Hòn Nghệ… tạo nguồn thủy sản phong phú, mở ra hướng làm ăn gắn với du lịch trải nghiệm biển đảo.
Ông Hồ Văn Trung, ở khu phố Ba Hòn, xã Kiên Lương từng có nhiều năm gắn bó với nghề đi biển và thu mua hải sản. Năm 2018, sau khi nghe tỉnh khuyến khích chuyển đổi sinh kế bền vững, ông quyết định dừng hẳn việc đánh bắt xa bờ để thử sức với nuôi cá lồng bè. “Lúc đó tôi biết mình sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng nghĩ tới tương lai lâu dài thì phải thay đổi”, ông Trung nhớ lại.

Lồng bè nuôi cá của ông Hồ Văn Trung ở hòn Nhum Bà.
Khởi đầu không hề dễ. Những vụ cá đầu tiên, ông thua lỗ vì chưa nắm vững kỹ thuật. Nhưng rồi, bằng sự kiên trì và chịu khó học hỏi, ông từng bước rút kinh nghiệm. Đến nay, hệ thống nuôi của ông đã lên tới 10 bè với hơn 80 lồng cá, chủ yếu là các loại có giá trị cao như cá hồng Mỹ, cá bớp, cá mú, cá chim vây vàng…
Nhờ đầu ra ổn định, mỗi năm ông đầu tư hơn 10 tỷ đồng cho con giống, thức ăn, nhân công và nếu thuận lợi, doanh thu có thể vượt 20 tỷ đồng, lợi nhuận đạt từ 6-10 tỷ đồng.
Ngồi trên tàu ra thăm hòn Nhum Bà, lồng bè của ông Trung trải dài trên biển mênh mông như một bản đồ thủy sản giữa đại dương xanh thẳm. Những bè kẽm lắp composite nổi lên giữa sóng nước, xen kẽ các loại cá đủ màu sắc tung tăng bơi lội. Gió biển thổi lồng lộng, mặt nước nhấp nhô phản chiếu ánh nắng chói chang, tạo nên cảnh tượng vừa hùng vĩ, vừa thanh bình.

Ông Hồ Văn Trung kiểm tra độ lớn của cá nuôi lồng bè.
Ông Trung kể, nghề này đòi hỏi kỹ thuật cao. Mỗi năm hai lần, khi gió mùa Đông Bắc tràn về, ông di dời toàn bộ bè từ hòn Bà Đập sang hòn Nhum Bà, chờ đến tháng 4-5 mới đưa về vị trí cũ để đàn cá tránh trú an toàn. “Làm nghề mà không am hiểu thời tiết, quy trình chăm sóc thì khó đạt hiệu quả”, ông nói. Không chỉ làm giàu cho gia đình, ông Trung còn tạo việc làm ổn định cho 12 lao động địa phương, góp phần cải thiện sinh kế cho cộng đồng.
Giữa khung cảnh những đảo nhỏ yên bình, ông Trung chia sẻ mơ ước: “Nếu Nhà nước sớm quy hoạch vùng nuôi, giao mặt nước cụ thể, kết hợp nuôi trồng thủy sản với du lịch sinh thái, quần đảo Bà Lụa sẽ trở thành điểm đến lý tưởng, vừa bảo vệ nguồn lợi biển, vừa nâng cao đời sống ngư dân”.

Ông Hồ Văn Trung cho cá ăn.
An Giang với hơn 140 hòn đảo lớn nhỏ, bờ biển phần đất liền dài trên 200km và vùng biển hơn 63.000km² đang có lợi thế lớn để phát triển kinh tế biển. Ngoài nuôi cá, nhiều địa phương còn mở rộng nuôi sò huyết, hến, vẹm xanh, ốc hương... Những mô hình này được kỳ vọng sẽ là “cứu cánh” cho ngành thủy sản tỉnh nhà trước nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi và biến đổi khí hậu.
Câu chuyện của Hồ Văn Trung minh chứng rằng, dám bỏ thói quen cũ, mạnh dạn đầu tư và nắm bắt cơ hội, không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn mở ra hướng đi bền vững cho kinh tế biển An Giang.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang Lê Hữu Toàn cho biết: “Vùng ven biển Tây An Giang được thiên nhiên ưu đãi, thủy triều Vịnh Thái Lan điều hòa, bãi bồi mênh mông trở thành “ngôi nhà” lý tưởng của sò huyết, vẹm xanh, nghêu, hến. Mỗi năm, tỉnh thu hoạch hơn 95.000 tấn nhuyễn thể, với khoảng 23.300ha nuôi, trong đó sò huyết An Giang giữ kỷ lục lớn nhất cả nước".
|
Không chỉ tạo sinh kế cho hàng ngàn hộ dân vùng bãi bồi, mô hình nuôi sò, vẹm còn gắn liền với phục hồi rừng ngập mặn, vừa chắn sóng, vừa giữ đất, lại ít tác động môi trường. Những giàn cọc vẹm ngoài biển như hàng rào xanh, góp phần giảm sóng, tái tạo sinh cảnh cho nhiều loài thủy sinh.
“Nhờ bãi bồi mà dân mình có cái ăn cái mặc, sò huyết, vẹm xanh đâu chỉ mang lại thu nhập, mà còn giữ rừng, giữ đất cho con cháu sau này”, ông Toàn, một hộ nuôi ven biển, chia sẻ.
“Trong giai đoạn tới, An Giang xác định phát triển thủy sản theo hướng sinh thái, lấy rừng ngập mặn và bãi bồi làm nền tảng. Tỉnh tập trung nhân rộng mô hình nuôi dưới tán rừng, kết hợp đa loài, nâng cao giá trị sản phẩm. Song song đó, đẩy mạnh nuôi cá lồng bè ở các đảo, gắn khai thác thủy sản với du lịch trải nghiệm. Tỉnh cũng mời gọi doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết, chế biến, tiêu thụ, từng bước xây dựng thương hiệu sò huyết, vẹm xanh và cá biển An Giang vươn tầm xuất khẩu”, Giám đốc Sở nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang nói.
Bài và ảnh: ĐẶNG LINH