Thị trường nông sản: Giá lúa, gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long tăng trở lại

16/03/2025 - 19:04

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 5.650 đồng/kg; giá lúa thường tại kho cao nhất là 6.950 đồng/kg; gạo 5% tấm có giá cao nhất 11.600 đồng/kg.

Thu hoạch lúa Đông Xuân sớm tại huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. (Ảnh: Duy Khương/TTXVN)

Thu hoạch lúa Đông Xuân sớm tại huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. (Ảnh: Duy Khương/TTXVN)

Giá lúa, gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua có sự tăng giá trở lại. Giá gạo xuất khẩu Việt Nam cũng tăng nhẹ, trong khi giá gạo của các nước khác vẫn giảm.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 5.650 đồng/kg, giá bình quân là 5.514 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho trung bình ở mức 6.733 đồng/kg; giá cao nhất là 6.950 đồng/kg.

Giá các mặt hàng gạo cũng có sự điều chỉnh tăng. Cụ thể, gạo 5% tấm có giá cao nhất 11.600 đồng/kg, giá bình quân 10.293 đồng/kg, tăng 79 đồng/kg.

Gạo 15% tấm có giá cao nhất 11.200 đồng/kg, giá bình quân 10.067 đồng/kg, tăng 83 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 9.350 đồng/kg, giá bình quân 9.200 đồng/kg, tăng 83 đồng/kg.

Giá gạo xát trắng loại 1 tăng 60 đồng/kg, giá trung bình là 10.350 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 tăng 50 đồng/kg, trung bình là 8.717 đồng/kg.

Theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, giá một số loại lúa được thương lái thu mua như IR 50404 từ 5.500-5.600 đồng/kg; OM 5451 ở mức từ 5.700-5.800 đồng/kg; Đài thơm 8 (tươi) và OM 18 (tươi) dao động từ 6.400-6.650 đồng/kg.

Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000-16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000-22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 18.000-20.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 21.500 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 18.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 21.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.

ttxvn-gao-viet-nam-resize.jpg

Dây chuyền đóng bao gạo xuất khẩu tại tỉnh An Giang. (Nguồn: Hồng Đạt/TTXVN)

Gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.150-8.200 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500-9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.750-7.850 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở 8.800-9.000 đồng/kg.

Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 7.300-10.000 đồng/kg. Giá tấm thơm ở mức 7.100-7.300 đồng/kg; giá cám khô ở mức 7.300-10.000 đồng/kg.

Về xuất khẩu, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 392 USD/tấn trong phiên 13/3, tăng so với mức 389 USD/tấn một tuần trước đó.

Hiện nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch khoảng 50% vụ Đông Xuân 2024-2025.

Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã giảm xuống mức thấp nhất trong 21 tháng do nhu cầu yếu và sự cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu khác.

Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức từ 403-410 USD/tấn, giảm so với mức từ 409-415 USD/tấn trong tuần trước.

Một đại lý có trụ sở tại New Delhi của một nhà giao dịch toàn cầu cho biết các khách hàng đang trả giá rất thấp vì Pakistan và Việt Nam đang bán gạo rẻ hơn.

Tuần trước, Ấn Độ đã cho phép xuất khẩu gạo 100% tấm, vốn đã bị cấm từ tháng 9/2022.Giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng giảm xuống còn từ 405-408 USD/tấn, so với mức 415 USD/tấn của tuần trước do biến động tỷ giá.

Một thương nhân ở Bangkok cho biết giá gạo Việt Nam và Ấn Độ thấp hơn nhiều so với giá gạo Thái Lan. Nhu cầu đối với gạo Thái Lan rất thấp và không có vấn đề gì về nguồn cung.

Một thương nhân khác cho biết xuất khẩu gạo của Thái Lan sẽ gặp thách thức trong năm nay do nguồn cung mới từ các nhà sản xuất khác như Ấn Độ và Campuchia.

Thương nhân này cho biết nhu cầu ổn định, tập trung vào các khách hàng thường xuyên, và giá gạo sẽ không vượt 410 USD/tấn bất chấp biến động tiền tệ.

Trong khi đó, giá gạo trong nước ở Bangladesh vẫn ở mức cao bất chấp những nỗ lực tăng cường nhập khẩu và dự trữ, gây áp lực lên người tiêu dùng. Nước này đang mua gạo từ Việt Nam, Myanmar và Pakistan thông qua các thỏa thuận liên chính phủ và đấu thầu quốc tế.

ttxvn-caphe-dak-lak-1403-1.jpg

Thu hoạch càphê. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Về thị trường càphê thế giới, giá càphê đồng loạt giảm mạnh phiên cuối tuần, trong đó càphê Robusta giảm 131 USD/tấn và Arabica mất thêm 8,5 xu/lb (1 lb=0,45kg).

Ở trong nước, các đại lý điều chỉnh giá thu mua càphê về mốc 130.000 - 132.000 đồng/kg, giảm 1.500 đồng/kg so với phiên trước đó.

Trên sàn ICE Futures Europe, giá càphê Robusta giao tháng 5/2025 giảm 131 USD/tấn xuống 5.397 USD/tấn, giá càphê Robusta giao tháng 7/2025 giảm 129 USD/tấn, ở mức 5.377 USD/tấn.

Trên sàn ICE Futures US, giá càphê Arabica giao tháng 5/2025 giảm 8,50 xu/lb, hiện ở mức 377,20 xu/lb, giao tháng 7/2025 giảm 7,80 xu/lb, ở mức 370,85 xu/lb.

Đà giảm phần nào hạn chế sau khi lượng lượng càphê robusta dự trữ do ICE giám sát giảm xuống mức thấp nhất trong một tuần rưỡi là 4.288 lô vào ngày 14/3.

Giá càphê Arabica giảm ba phiên liên tiếp xuống mức thấp nhất trong 2 tuần do chịu áp lực bởi dự báo sẽ có mưa rào trên diện rộng vào tuần tới tại Minas Gerais, vùng sản xuất càphê Arabica lớn nhất của Brazil, làm giảm bớt lo ngại về tình trạng khô hạn.

Cơ quan Thống kê Quốc gia Brazil (IBGE) đã đưa ra dự báo rằng sản lượng cà phê của Brazil trong niên vụ từ tháng 7/2025 đến tháng 6/2026 có thể đạt tổng cộng 53,2 triệu bao, giảm 6,8% so với niên vụ 2024-2025 trước đó.

Trong số đó, sản lượng càphê Arabica sẽ giảm 11,2% so với niên vụ hiện tại, xuống còn 35,6 triệu bao, trong khi sản lượng càphê Robusta, dự kiến sẽ bắt đầu thu hoạch trong thời gian tới, sẽ tăng 3,4%, đạt tổng cộng 17,6 triệu bao.

Về thị trường nông sản Mỹ, các nhà phân tích cho biết giá ngô kỳ hạn trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đã giảm nhẹ trong phiên 14/3 do lo ngại về xung đột thương mại làm gián đoạn dòng chảy thương mại và nguồn cung dồi dào từ Nam Mỹ gây áp lực lên giá.

ttxvn-dau-tuong.jpg

Nông dân thu hoạch đậu tương tại trang trại ở Scribber, bang Nebraska, Mỹ. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Trong khi đó, đậu tương tăng nhẹ trong một phiên giao dịch đầy biến động. Giá lúa mì giảm, mặc dù kỳ vọng về xuất khẩu lúa mỳ từ Nga giảm đã giữ giá không giảm sâu hơn.

Cụ thể, giá ngô giảm 6,75 xu xuống 4,5850 USD/bushel, giá lúa mỳ giảm 5,50 xu xuống 5,57 USD/bushel, còn giá đậu tương tăng 5,25 xu lên 10,16 USD/bushel. (1 bushel lúa mì/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

Thị trường ngũ cốc phải đối mặt với áp lực trong tuần này sau khi Mỹ áp dụng thuế quan sửa đổi đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu thép và nhôm, khiến Liên minh châu Âu và Canada tuyên bố áp thuế trả đũa đối với một số hàng hóa của Mỹ.

Các nhà phân tích cho biết ước tính sản lượng ngô và đậu tương thấp hơn ở Argentina, nhà cung cấp chính, có thể đã hỗ trợ phần nào cho giá ngô và đậu tương, mặc dù vụ thu hoạch đậu tương lớn ở Brazil có thể sẽ tiếp tục gây áp lực lên giá.

Công ty tư vấn IKAR của Nga ngày 13/3 cho biết đã cắt giảm dự báo xuất khẩu lúa mỳ niên vụ 2024-2025 từ 42,5 triệu tấn xuống khoảng 41 triệu tấn. Giá lúa mỳ thấp của Mỹ và hạn ngạch xuất khẩu ở Nga, nhà sản xuất lúa mỳ lớn, đã thúc đẩy sự quan tâm mua lúa mỳ của Mỹ./.

Theo TTXVN/Vietnam+