Bản Tuyên ngôn độc lập trường tồn

02/09/2021 - 06:40

 - Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (thủ đô Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Bản Tuyên ngôn ấy chỉ 1.000 chữ, được sắp xếp trong 49 câu, nhưng là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn, sắc bén, khẳng định chủ quyền quốc gia và mở ra thời kỳ mới của dân tộc.

Tuyên ngôn độc lập khẳng định quyền dân tộc và quyền con người luôn gắn bó chặt chẽ với nhau bằng việc luận dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Nội dung của Tuyên ngôn độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu, làm rõ. Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bằng những câu trích dẫn từ bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp? Trong bài viết: “Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945”, TS Vũ Ngọc Am phân tích:

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh, Người nhắc đến 2 văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và cách mạng tư sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là những thành quả văn hóa của nhân loại, dấu mốc lớn của lịch sử loài người, trong đó khẳng định những quyền cơ bản của con người. Những tư tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Dẫn dắt từ sự kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.

Hai là, trên nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên và là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ lẫn mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã giương cao.

Ba là, đi sâu nghiên cứu bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả 2 bản Tuyên ngôn đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện tư tưởng lớn, 1 luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam. Đây là nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.

“Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người. Trên thực tế, tinh thần ấy được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay” - GS Vũ Ngọc Am nhận định. Kết tinh của tinh thần, ý chí và khát vọng độc lập, tự do; kiên trì đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam, ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc.

Trong suốt 76 năm qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Với tinh thần đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước và trong công cuộc đổi mới.

Đối với mỗi người dân Việt Nam, bản Tuyên ngôn độc lập sống mãi, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn về quyền con người và quyền dân tộc.

G.K