Thả 320 nghìn con giống thủy sản xuống các vùng nước tự nhiên trong tỉnh Thái Bình, tháng 3/2023. Ảnh: MAI TÚ
Mục tiêu đến năm 2030 hoàn thành kế hoạch điều tra, đánh giá đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thủy sản ở biển Việt Nam bao gồm cả vùng biển sâu, các bãi cạn, gò đồi ngầm; 100% hồ tự nhiên, hồ chứa lớn và hệ thống sông chính được điều tra, đánh giá nguồn lợi và môi trường sống của loài thủy sản; 100% các khu bảo tồn biển, khu vực cư trú nhân tạo cho loài thủy sản ở biển; 100% các tỉnh, thành phố tổ chức hoạt động thả tái tạo nguồn lợi thủy sản vào vùng nước tự nhiên hằng năm; 60% địa phương thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch sinh thái...
Việt Nam là quốc gia với đường bờ biển dài, nhiều vũng, vịnh kín gió và hàng triệu ha đất ngập nước, ao hồ, ruộng trũng… là tiềm năng lớn để thúc đẩy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển.
Trên thực tế, những năm qua diện tích, sản lượng nuôi trồng thủy sản ở nước ta tăng nhanh và tạo ra nhiều sản phẩm tốt phục vụ tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu.
Nghề nuôi trồng thủy sản cũng đang góp phần nâng cao thu nhập và tạo nhiều việc làm cho nhân dân. Theo thống kê, tổng sản lượng thủy sản năm 2023 đạt 9,269 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thủy sản ước đạt khoảng 9,2 tỷ USD. Riêng lĩnh vực nuôi trồng thủy sản với diện tích khoảng 1,3 triệu ha nuôi nội địa và 9,5 triệu m³ lồng nuôi biển, sản lượng hơn 5,4 triệu tấn.
Tuy nhiên, ở một số nơi, việc nuôi trồng thủy sản còn nhỏ lẻ, phân tán cho nên khó kiểm soát môi trường, dịch bệnh.
Bên cạnh đó, nước ta cũng chưa chủ động hoàn toàn được nguồn giống sạch bệnh và nguồn thức ăn cho nghề nuôi trồng thủy sản; chi phí sản xuất ở mức cao dẫn đến giảm sức cạnh tranh khi xuất khẩu; kết cấu hạ tầng nuôi ở một số nơi còn thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển...
Chương trình quốc gia bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2030 với những giải pháp thiết thực để bảo tồn, bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản nhằm phục hồi và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lợi thủy sản và các hệ sinh thái thủy sinh.
Trên cơ sở đó, các giải pháp chính về hoàn thiện cơ chế, chính sách cần thực hiện như: Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách chuyển đổi nghề, đa dạng hóa sinh kế cho cộng đồng dân cư sống trong và chung quanh khu bảo tồn biển, cộng đồng ngư dân khai thác thủy sản tại vùng biển ven bờ; chính sách hỗ trợ ngư dân trong thời gian cấm khai thác thủy sản; chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề khai thác thủy sản ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản, môi trường, hệ sinh thái sang các nghề khai thác thủy sản thân thiện với môi trường hoặc chuyển ra ngoài lĩnh vực khai thác thủy sản.
Ðồng thời, chúng ta cần xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước trong công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, phục hồi các hệ sinh thái thủy sinh; hỗ trợ thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản; cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các lực lượng chức năng để thực hiện tốt kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong các hoạt động thủy sản trên biển và trong vùng nội địa.
Ðể nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, cần kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản, lực lượng kiểm ngư từ trung ương đến địa phương, thanh tra chuyên ngành bảo đảm hiện đại, đồng bộ xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn cao; bố trí lực lượng kiểm ngư tại các khu bảo tồn biển nhằm thực hiện hiệu quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học biển, quản lý nguồn lợi thủy sản; nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong công tác thực thi pháp luật về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thu hút nguồn lực quốc tế trong hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản...
Theo BẢO HÂN (Nhân dân)