
Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh (thứ 2 từ trái qua) và Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Phân bón Bình Điền Phan Văn Tâm (thứ 3 từ phải qua) cùng các đại biểu tham quan, đánh giá ruộng canh tác lúa giảm phát thải tại Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất. Ảnh: Tam Phan.

Đại biểu tham quan, đánh giá giải pháp băm rơm kết hợp với xử lý vi sinh để phân hủy nhanh thành phân hữu cơ tại ruộng, giúp giảm phát thải trong canh tác lúa. Ảnh: Trung Chánh – NNVN.


Cánh đồng canh tác lúa giảm phát cho lợi nhuận tăng cao trên 55,5 triệu đồng/ha. Ảnh: Tam Phan – Huy Hồ.



Đại biểu tham dự Diễn đàn sơ kết Dự án Khuyến nông Trung ương "Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của ĐBSCL", ngày 28/3/2025 tại Kiên Giang. Ảnh: Tam Phan – Huy Hồ.
Câu chuyện bắt đầu từ thực tế…
Trong nhiều năm, tình trạng thâm canh tăng vụ liên tục và tập quán canh tác lúa ở ĐBSCL vẫn áp dụng gieo sạ dày, bón phân, phun thuốc hóa học quá mức. Hệ quả là chi phí tăng cao, đất trồng bị suy thoái, ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính. Chính vì thế, mô hình canh tác lúa giảm phát thải ra đời như một hướng đi mới. Không chỉ là một mô hình sản xuất, đây là một phương pháp tư duy canh tác tiên tiến, đặt yếu tố hiệu quả – bền vững – thân thiện môi trường làm trung tâm.
Ông Phan Văn Tâm, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền cho biết: “Từ thành công của chương trình “Canh tác lúa thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL”, Bình Điền được giao triển khai thực hiện Dự án Khuyến nông Trung ương, với sự đồng hành của Trung tâm khuyến nông, dịch vụ nông nghiệp các tỉnh, nhà khoa học và doanh nghiệp đối tác trong chuỗi sản xuất lúa gạo từ đầu vào đến đầu ra. Dự án Khuyến nông Trung ương thực hiện trong vụ đông xuân 2024 - 2025 đạt được kết quả rất đáng tự hào, góp phần giúp nông dân giảm chi phí, tăng thu nhập và giảm phát thải khí nhà kính”.
Giảm giống, giảm phân, giảm thuốc – tăng lợi nhuận
Một trong những thành công lớn nhất của dự án chi phí đầu tư đã giảm rất đáng kể, trong đó: Chỉ gieo sạ khoảng 70kg/ha, giảm được từ 30 - 84kg/ha lượng giống gieo sạ so với đại trà; sạ thưa giúp cây lúa sinh trưởng khỏe, ít sâu bệnh và tiết kiệm chi phí ngay từ đầu vụ. Lượng phân bón sử dụng cũng được tính toán hợp lý, bón phân chuyên dùng lúa có hàm lượng dinh dưỡng theo nhu cầu cây trồng, giảm trung bình 34,8% đạm (N), 30% lân (P₂O₅), và 20% kali (K₂O) so với đại trà. Mô hình còn giảm được 1,8 lần phun thuốc bảo vệ thực vật, tương đương giảm 22% chi phí, giúp giảm rủi ro ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe nông dân.
Và hơn thế nữa, áp dụng tốt quy trình quản lý nước theo kỹ thuật ướt khô xen kẽ, các mô hình rút nước từ 2 - 4 lần trong vụ lúa. Việc tiết giảm này không chỉ giúp tiết kiệm lượng nước tưới, nông dân giảm được chi phí đầu vào, còn góp phần giảm phát thải khí N₂O – loại khí nhà kính mạnh gấp 298 lần CO₂ ra môi trường bên ngoài.
Tổng hợp các thành tựu trên đã tạo nên một hiệu quả kinh tế vượt trội: Lợi nhuận tăng thêm 7,5 triệu đồng/ha, tỷ suất lợi nhuận đạt 159%, cao hơn 42% so với đại trà. Đặc biệt tại mô hình Hợp tác xã Nông nghiệp Vinacam Hòn Đất (Kiên Giang) với giống lúa DS1 cho năng suất đến 10,3 tấn, lợi nhuận trên 55 triệu đồng/ha và giảm phát thải trên 13 tấn/ha CO₂ quy đổi so với canh tác truyền thống.
Nông dân là trung tâm của sự thay đổi
Một yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của dự án chính là sự phối hợp tốt trong công tác tổ chức thực hiện, từ các nhà khoa học, cơ quan quản lý, chuyển giao khoa học kỹ thuật và doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất lúa gạo, đến sự đồng hành và chủ động của nông dân. Các lớp tập huấn, đào tạo TOT/TOF, hội thảo sơ kết được tổ chức quy mô, giúp hơn 660 lượt nông dân nắm vững kỹ thuật mới như quản lý nước theo phương pháp AWD (tưới ướt khô xen kẽ), sử dụng phân hữu cơ (Đầu Trâu dưỡng rễ - Tốt cây) kết hợp NPK chuyên cùng cho lúa (Đầu Trâu TE A1 và Đầu Trâu TE A2), sử dụng Đầu Trâu Bio - Canxi để tăng pH, giảm ngộ độc hữu cơ, áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp, quản lý rơm rạ sau thu hoạch theo hướng tuần hoàn, giảm phát thải.
“Làm lúa kiểu mới, ban đầu cũng lo lắm. Nhưng được tập huấn kỹ, tôi lại thấy lúa ít sâu bệnh, khỏe hơn, bón phân ít mà năng suất lại cao, lời nhiều hơn. Vui lắm!” – anh Lê Minh Khem (nông dân ở Hòn Đất, Kiên Giang, có 10ha trong mô hình) chia sẻ.
Không chỉ dừng lại ở phạm vi mô hình, dự án còn được lan tỏa rộng rãi trong cả nước và nước ngoài thông qua phương tiện truyền thông đại chúng. Những hình ảnh nông dân làm lúa sạch, giảm chi phí mà thu lời cao trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều địa phương khác. Sự thành công của mô hình đã khẳng định rõ ràng: Giảm phát thải không đồng nghĩa với giảm năng suất. Mà ngược lại, năng suất lúa vẫn tăng; chất lượng và giá trị của hạt lúa được nâng lên đáng kể, góp phần giảm phát thải và bảo vệ môi trường.
Khuyến nghị và tầm nhìn tương lai
Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia nhấn mạnh “sự cần thiết của việc duy trì và nhân rộng mô hình, xây dựng các tổ khuyến nông cộng đồng để hỗ trợ nông dân, hợp tác xã tham gia Đề án 1 triệu ha một cách bền vững”. Theo đó, Dự án khuyến nghị mở rộng mô hình ra vụ hè thu 2025 và các vụ tiếp theo, đồng thời tích hợp vào Đề án phát triển vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu và lúa gạo phát thải thấp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Việc ứng dụng công nghệ, thiết lập hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) bài bản sẽ giúp nông dân tiếp cận chính sách tín chỉ carbon, mở ra cơ hội thu nhập mới từ nông nghiệp xanh.
Mô hình “Canh tác lúa giảm phát thải” không chỉ là một dự án kỹ thuật – đó là một thay đổi trong tư duy canh tác, trong hành vi và cả trong kỳ vọng của nông dân về một nền nông nghiệp sinh thái, hiệu quả và bền vững. Đây cũng là bước đi thiết thực của Bình Điền cùng ngành nông nghiệp Việt Nam trên hành trình kiến tạo “gạo xanh - sống lành”, khẳng định vị thế gạo Việt trên thị trường quốc tế trong thời đại giảm phát thải và phát triển bền vững.
HỒ THẾ HUY