Sự tiên phong của người đứng đầu: Nhân tố quyết định thành công của phong trào “Bình dân học vụ số”

11/06/2025 - 09:37

Từ yêu cầu thực tiễn chuyển đổi số và vai trò then chốt của người đứng đầu, vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để phong trào “Bình dân học vụ số” không chỉ dừng lại ở những mô hình điểm, mà trở thành phong trào rộng khắp, đi vào chiều sâu trong đời sống nhân dân - nhất là ở vùng ĐBSCL. Đây là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, năng động trong sản xuất, nhưng cũng đang đối diện với không ít rào cản trong tiếp cận công nghệ. Do đó, cần có những giải pháp đồng bộ, linh hoạt, sát với điều kiện thực tế để phát huy hiệu quả phong trào.

Kỳ 3: Một số giải pháp thúc đẩy phong trào “Bình dân học vụ số” ở ĐBSCL

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: “Chúng ta phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, đó là, phổ cập tri thức, công nghệ về chuyển đổi số, kỹ năng số cho toàn dân, tức là “xóa mù” về “chuyển đổi số”” (Ảnh: VGP/Nhật Bắc)

Giải pháp về tổ chức - bộ máy phù hợp thực tiễn ĐBSCL

ĐBSCL có đặc điểm dân cư sống phân tán theo từng ấp, khóm, ven sông, kênh rạch; trình độ dân trí và mức độ tiếp cận công nghệ giữa các nhóm dân cư còn chênh lệch khá lớn. Bởi vậy, việc tổ chức phong trào cần lấy cấp xã - ấp làm trọng tâm, tận dụng các thiết chế sẵn có như hội trường ấp, nhà văn hóa xã, trạm y tế, trường học làm điểm kết nối học tập công nghệ cho người dân.

Mỗi xã, phường, thị trấn cần thành lập Ban Chỉ đạo triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” gắn liền với Ban Chỉ đạo chuyển đổi số, có phân công rõ trách nhiệm của từng thành viên. Đặc biệt, trưởng ấp, trưởng khóm, cán bộ đoàn thể cơ sở phải là lực lượng nòng cốt, trực tiếp đến từng hộ dân, nhóm đối tượng để tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ thực hành sử dụng thiết bị công nghệ, dịch vụ công trực tuyến.

Mô hình “Tổ công nghệ cộng đồng” đã được Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai thí điểm có thể nhân rộng tại các tỉnh vùng ĐBSCL, trong đó ưu tiên các xã đặc biệt khó khăn, xã nông thôn mới nâng cao, xã có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống.

Giải pháp về nội dung và hình thức phù hợp vùng nông thôn, đa dạng dân cư

Nội dung truyền thông về chuyển đổi số và học vụ số phải “gần dân, dễ hiểu, dễ làm, sát thực tế”. Đa phần người dân nông thôn, nhất là người lớn tuổi, ít tiếp xúc công nghệ, sẽ khó tiếp cận các tài liệu kỹ thuật hoặc ngôn ngữ chuyên ngành. Do vậy, cần xây dựng bộ tài liệu minh họa trực quan, ví dụ bằng hình ảnh, video tiếng địa phương, câu chuyện thực tế.

Hình thức triển khai cũng cần đa dạng: tổ chức lớp học nhỏ 5 - 10 người tại nhà văn hóa ấp; phát sóng chương trình radio tiếng Khmer hướng dẫn người dân sử dụng điện thoại thông minh; giao bài tập thực hành cho hội viên phụ nữ, hội nông dân như “thành thạo Zalo trong 1 tuần”, “giao dịch không tiền mặt trong 10 ngày”… để biến học thành làm.

Có thể phối hợp với các tổ chức tín dụng, ngân hàng chính sách xã hội để tổ chức các buổi tập huấn tài chính số, giao dịch không tiền mặt cho hộ kinh doanh nhỏ, tiểu thương tại chợ quê - đối tượng rất cần được hỗ trợ để không bị tụt lại phía sau trong kinh tế số.

Giải pháp về nhân lực - phát huy đội ngũ trẻ, gắn trường học với cộng đồng

Nguồn nhân lực trẻ tại ĐBSCL tuy đông nhưng còn thiếu định hướng để tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội. Các tỉnh, thành cần có kế hoạch huy động lực lượng đoàn viên, sinh viên tình nguyện, cán bộ Đoàn, Hội, giáo viên tin học, học sinh phổ thông… tham gia hỗ trợ người dân tiếp cận công nghệ.

Gắn phong trào “Bình dân học vụ số” với hoạt động tình nguyện hè của sinh viên các trường đại học tại Cần Thơ, An Giang, Trà Vinh… thông qua mô hình “Một sinh viên kèm một hộ dân”, “Một lớp học, nhiều thế hệ”, tạo điều kiện cho việc học hỏi hai chiều: người trẻ hiểu thêm đời sống thực tiễn, người lớn có động lực và cơ hội học hỏi công nghệ.

Đối với giáo dục phổ thông, cần khuyến khích nhà trường tổ chức các chuyên đề ngoại khóa, dự án nhỏ gắn lý thuyết công nghệ với thực hành hỗ trợ cộng đồng. Ví dụ: học sinh lớp 9 dạy ông bà sử dụng ứng dụng AI; học sinh lớp 12 thiết kế tờ rơi về phòng chống lừa đảo công nghệ. Đây vừa là giáo dục công dân, vừa là hành động cụ thể góp phần lan tỏa phong trào.

Giải pháp về hạ tầng số và tiếp cận thiết bị

Hạ tầng viễn thông, thiết bị số tại nhiều xã vùng sâu, vùng biên giới của ĐBSCL còn yếu kém. Một số hộ dân vẫn chưa có điện thoại thông minh hoặc dùng điện thoại nhưng không biết truy cập Internet, sử dụng ứng dụng. Do vậy, bên cạnh công tác tuyên truyền cần có giải pháp hỗ trợ tiếp cận công bằng.

Các địa phương cần khảo sát thực trạng hạ tầng kết nối, tỷ lệ phủ sóng internet, tỷ lệ hộ có điện thoại thông minh để xây dựng kế hoạch phân bổ hợp lý. Có thể xã hội hóa việc trang bị điện thoại cũ còn sử dụng được, kêu gọi doanh nghiệp viễn thông hỗ trợ gói cước miễn phí, lắp wifi miễn phí tại nhà văn hóa xã.

Ngoài ra, cần thí điểm xây dựng mô hình “Góc học công nghệ” tại nhà văn hóa xã nơi trang bị 2 - 3 máy tính kết nối Internet, có cán bộ trực để hỗ trợ người dân thực hành các thao tác cơ bản như khai báo y tế, truy cập dịch vụ công, học kỹ năng số cơ bản.

Giải pháp chính sách, cơ chế khuyến khích và nhân rộng mô hình

Phong trào chỉ bền vững khi có động lực xã hội hóa và được thể chế hóa thành chỉ tiêu trong chương trình chuyển đổi số của từng tỉnh, thành phố. Các tỉnh ĐBSCL cần đưa chỉ tiêu phát triển “Bình dân học vụ số” vào nghị quyết, kế hoạch hành động cấp huyện/xã; lồng ghép vào tiêu chí thi đua xây dựng xã nông thôn mới nâng cao.

Kịp thời biểu dương, vinh danh các tập thể, cá nhân có sáng kiến, đóng góp tích cực cho phong trào: cô giáo tiểu học mở lớp học miễn phí cho người già; chủ nhiệm hợp tác xã xây dựng kênh TikTok chia sẻ kiến thức công nghệ; xã viên Hội Nông dân livestream giới thiệu sản phẩm địa phương… Những việc làm cụ thể đó là hạt nhân nhân rộng phong trào.

Mỗi huyện, thị, thành phố nên có kế hoạch xây dựng ít nhất 1 - 2 mô hình điểm về “Bình dân học vụ số”, tổ chức hội nghị sơ kết, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm, thi đua thực chất để tạo khí thế thi đua, học tập lẫn nhau trong toàn vùng.

Từ phong trào xóa mù chữ năm xưa đến phong trào “Bình dân học vụ số” hôm nay, tinh thần cốt lõi vẫn không thay đổi: dân phải được học, dân phải biết tự chủ trong cuộc sống mới. Giữa thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ, nếu không tiếp cận công nghệ, người dân sẽ tự gạt mình ra ngoài cuộc.

Triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” chính là cách thiết thực để đưa chủ trương chuyển đổi số của Đảng và Nhà nước vào từng ngõ ngách đời sống. Nhưng để thành công, không thể chỉ là lời kêu gọi. Phải có người tiên phong, có mô hình cụ thể, có cách làm sáng tạo và có sự chung tay của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

Khi người dân biết cách tiếp cận công nghệ, biết tự học, biết chọn lọc thông tin, biết sử dụng dịch vụ công trực tuyến... thì đó không chỉ là thành công của phong trào, mà còn là bảo đảm cho sự phát triển bền vững và chủ quyền số của quốc gia trong tương lai.

TS NGUYỄN HỮU DŨNG

Học viện Chính trị khu vực IV