Vị thế quốc gia của Việt Nam khi bước sang năm mới 2025

30/01/2025 - 08:43

Sự tiến bộ của Việt Nam trên các bảng xếp hạng không chỉ phản ánh quy mô và giá trị của nền kinh tế, năng lực giải quyết các vấn đề xã hội, mức độ hấp dẫn đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng ngoại giao...

Kết quả năm 2024

Theo các số liệu thống kê, trong bối cảnh thế giới còn nhiều bất ổn, khó khăn nhiều hơn thuận lợi, kinh tế nước ta năm 2024 vẫn tăng trưởng tích cực với nhiều điểm sáng. Về tổng thể, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội cả năm 2024 tăng 7,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 25,35 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến nay. 

Lao động có việc làm năm 2024 ước đạt 51,9 triệu người - tăng 585,1 nghìn người so với năm 2023. Thu nhập bình quân của lao động đạt 7,7 triệu đồng/tháng, tăng 610.000 đồng so với năm 2023. Tốc độ tăng GDP đạt 7,09%, trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%. 

W-kinh te 6412.jpg

Việt Nam được dự báo tăng trưởng mạnh trong năm 2025. Ảnh: Hoàng Hà

Về thương mại quốc tế, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2024 đạt 786,29 tỷ USD - tăng 15,4% so với năm trước. Trong đó xuất khẩu tăng 14,3%; nhập khẩu tăng 16,7%. Năm 2024 là năm thứ 9 nước ta xuất siêu liên tiếp với 24,77 tỷ USD. Lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2024 so với năm trước tăng 3,63% - vượt mục tiêu Quốc hội đề ra là 4%-4,5%.

Năm 2024 cũng chứng kiến chủ trương đối ngoại đa phương được thực hiện nhất quán trong suốt thời kỳ Đổi Mới đang đem đến cho chúng ta những kết quả rất đáng khích lệ. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, vùng lãnh thổ; xây dựng các mối quan hệ đối tác hữu hảo với các tổ chức quốc tế, quan hệ hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới. Tính chung cả năm 2024, Việt Nam đã trở thành điểm đến của gần 17,6 triệu lượt khách du lịch quốc tế - tăng 39,5% so với năm trước.

Nhìn chung, chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2024 được cải thiện với GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm 2023). Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện kịp thời, thiết thực từ trung ương tới các địa phương. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều hiện tại chỉ còn khoảng 1,9%. 

Vị thế quốc gia

Trong bài viết nhân dịp đầu năm mới 2025 “Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc”, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định những kết quả tích cực trong năm 2024 giúp Việt Nam tiếp tục trở thành một điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. 

Vậy, Việt Nam đang ở đâu trên bình diện toàn cầu? Thông thường, chúng ta cảm nhận về thứ bậc của một quốc gia nào đó trên phạm vi khu vực hoặc toàn cầu thông qua các bảng xếp hạng dựa vào các tiêu chí như: diện tích, dân số, quy mô của nền kinh tế, sức mạnh quân sự, năng lực tài chính, sức hấp dẫn văn hóa, vị trí địa lý và địa chính trị, mức độ tự do kinh tế, mức độ hiện đại về cấu trúc quản trị quốc gia, cũng như sự văn minh, tiến bộ về tổ chức đời sống xã hội. 

Mặc dù vị trí trên các bảng xếp hạng quốc tế chưa thể phản ánh đầy đủ nhưng cũng giúp chúng ta cảm nhận về chỗ đứng của một quốc gia, tức là vị thế quốc gia - một ý niệm chính trị-xã hội học được tạo nên bởi sự tổng hòa của nhiều yếu tố, bao gồm những thông số định lượng (khách quan) cũng như mức độ thừa nhận bởi cộng đồng quốc tế (chủ quan). Những cảm nhận tổng hợp về vị thế quốc gia giúp chúng ta hình dung một đất nước đang ở đâu trong các cấu trúc khu vực hoặc toàn cầu, gợi ra mức độ quyền lực cũng như uy tín và ảnh hưởng của mỗi đất nước đối với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. 

Trong năm 2024, vị trí của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trên nhiều bảng xếp hạng quốc tế. Chẳng hạn, xét về chỉ số phát triển bền vững (SDGs) thì Việt Nam được xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023; chỉ số tự do kinh tế tăng 13 bậc, lên vị trí 59/176; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu xếp hạng 44/132 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 2 bậc so với năm 2023. Giá trị thương hiệu quốc gia của nước ta đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023. Trên bảng xếp hạng chỉ số quyền lực Châu Á năm 2024, Việt Nam đứng thứ 12, tăng 1,2 điểm so với năm 2023. Đặc biệt ấn tượng là sự gia tăng chỉ số hạnh phúc của Việt Nam trong năm 2024, tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143.

Có thể thấy, sự tiến bộ của Việt Nam trên các bảng xếp hạng năm 2024 không chỉ phản ánh quy mô và giá trị của nền kinh tế, các mối quan hệ kinh tế, năng lực giải quyết các vấn đề xã hội, mức độ hấp dẫn đầu tư nước ngoài và khách du lịch quốc tế, cùng ảnh hưởng ngoại giao mà còn gợi ra những tín hiệu tích cực, cho thấy sự cải thiện vị thế và vai trò của nước ta trên bình diện quốc tế. 

kinh te1.jpg

Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực để vượt qua những khó khăn, bước lên những nấc thang mới không chỉ trong năm 2025 mà trong cả tiến trình hiện thực hóa các mục tiêu phát triển để thay đổi hẳn vị thế quốc gia vào giữa thế kỷ 21. Ảnh: Phạm Hải

Quyết tâm bứt phá

Những kết quả tích cực trong năm 2024 cho thấy Việt Nam đang có những bước tiến vững chắc, tạo cơ sở và niềm tin để phấn đấu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, tiến trình phát triển của nước ta cũng đang phải đối diện với những thách thức, cả trong ngắn hạn và dài hạn. Người đứng đầu Chính phủ đã nêu ra quyết tâm bứt phá, thể hiện qua mục tiêu của năm 2025: phấn đấu đạt mức tăng trưởng ít nhất 8% hoặc cao hơn trong điều kiện thuận lợi. Nếu thành công, năm 2025 sẽ tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam có thể đạt tốc độ tăng trưởng hai con số từ năm 2026. 

Trên cấp độ vĩ mô, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, để có thể bứt phá thì chúng ta sẽ phải tiếp tục giải quyết những vấn đề như “ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro, sức ép điều hành về tỷ giá, lãi suất, lạm phát còn lớn, nhất là trước những tác động bất lợi từ bên ngoài. Tình hình sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực còn khó khăn; sức mua thị trường phục hồi chậm, chưa rõ nét. Việc triển khai một số dự án kết cấu hạ tầng còn vướng mắc; giải ngân vốn đầu tư công chưa đáp ứng yêu cầu”…“Khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tầng lớp nhân dân chưa được cải thiện nhiều; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn”.

Những vấn đề thể chế đã được xác định là  “điểm nghẽn của điểm nghẽn", cần tiếp tục giải quyết để khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển. 

Chất lượng nguồn nhân lực cũng là một trong những vấn đề then chốt, có thể ảnh hưởng quyết định đến khả năng thực hiện các mục tiêu phát triển quốc gia. 

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có nhìn nhận rõ ràng về tình hình kinh tế - xã hội nước ta ở thời điểm hiện tại, những mục tiêu trong tương lai và và quyết tâm bứt phá phát triển. Với tinh thần vì lợi ích chung và phương châm "Đảng chỉ đạo, Chính phủ thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi, thì chỉ bàn làm, không bàn lùi", tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực để vượt qua những khó khăn, bước lên những nấc thang mới không chỉ trong năm 2025 mà trong cả tiến trình hiện thực hóa các mục tiêu phát triển để thay đổi hẳn vị thế quốc gia vào giữa thế kỷ 21.

Theo Vietnamnet