Khiếu nại mất đất sau khi cầm cố

10/10/2023 - 00:03

 - Đương sự xác định có cầm cố, chứ không sang nhượng đất, yêu cầu pháp luật xem xét giải quyết cho gia đình bà giữ lại đất.

Trình bày sự việc đến Báo An Giang, vợ chồng bà Nèang Tha (sinh năm 1959, ngụ tổ 17, khóm Phú Tâm, phường An Phú, TX. Tịnh Biên) cho biết, năm 2007, bà thỏa thuận cầm cố 1.702m2 đất cho vợ chồng ông Lê Thành Nhơn, bà Dương Thị Phượng (cùng sinh năm 1957, ngụ tổ 11, khóm Xuân Phú, phường Tịnh Biên, TX. Tịnh Biên).

Giá cầm cố 10 chỉ vàng 24k, không xác định thời gian, khi có tiền sẽ chuộc lại, nhưng bà không cho chồng biết. Số đất là tài sản của cha mẹ để lại cho vợ chồng bà, được UBND TX. Tịnh Biên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số C293620, ngày 22/10/1993, thửa đất số 885.

Thông qua phiên dịch, bà Tha cho biết: “Khi ông Nhơn đưa tờ giấy cố đất, tôi không biết chữ, không giao tiếp được tiếng Việt, nên lăn tay để làm chứng cứ. Sau ngày cầm cố, tôi giao đất cho gia đình ông Nhơn sử dụng, còn tôi quản lý, sử dụng 4 cây thốt nốt (khoảng 40 năm tuổi). Đến năm 2019, khi chưa đủ tiền chuộc lại đất, ông Nhơn kêu tôi giao GCNQSDĐ, bị tôi phản đối, khiếu nại, tố cáo, sau đó gia đình ông khởi kiện vụ việc đến Tòa án nhân dân (TAND) TX. Tịnh Biên.

Để tạo chứng cứ, ông Nhơn trưng ra “Tờ sang nhượng đất ngày 10/10/2000” cho tôi bán đất ruộng trên, nhưng giấy này không có chữ ký của vợ chồng ông, tôi chỉ lăn tay ở giấy cầm cố đất. Tôi khẳng định không bán đất, chỉ có cầm cố, yêu cầu pháp luật buộc ông Nhơn trả lại đất, gia đình tôi sẽ giao lại số tiền cầm cố”.

Bà Nèang Tha trình bày sự việc

Ý kiến của vợ chồng ông Lê Thành Nhơn do TAND TX. Tịnh Biên ghi nhận và đơn khởi kiện ngày 30/5/2019 cho biết, ông bà nhận chuyển nhượng diện tích đất 1.702m2 (đo thực tế 1.616m2 đất) của bà Nèang Tha, lập tờ sang nhượng đất ngày 10/10/2000. Giấy sang nhượng này nhờ ông Nguyễn Văn Hải ghi dùm tại nhà ông bà, có sự chứng kiến của bà Nèang Sim.

Lúc giao dịch, vợ chồng ông nhận bản phô-tô GCNQSDĐ, còn bản chính do bà Nèang Tha giữ. Giá đất chuyển nhượng 15 chỉ vàng 24k, giao nhận 2 lần nhưng không làm giấy biên nhận. Gia đình ông yêu cầu vợ chồng bà Nèang Tha thực hiện hợp đồng chuyển nhượng theo Tờ sang nhượng đất ngày 10/10/2000; vợ chồng ông sẽ trả giá trị 4 cây thốt nốt 16 triệu đồng. 

Về việc này, do 2 bên không đồng thuận, vợ chồng ông Lê Thành Nhơn làm đơn khởi kiện. Ngày 20/8/2019, TAND TX. Tịnh Biên thụ lý vụ án dân sự số 137/2019/TLST-DS “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Ngày 30/5/2023, vụ việc được đưa ra xét xử sơ thẩm.

Kết quả, TAND TX. Tịnh Biên chấp nhận khởi kiện của vợ chồng ông Lê Thành Nhơn về yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Tờ sang nhượng đất (ruộng trên) ghi ngày 10/10/2000; buộc ông Nhơn, bà Dương Thị Phượng có trách nhiệm giao 5 chỉ vàng 24k chưa thanh toán cho vợ chồng bà Nèang Tha. Buộc vợ chồng bà Nèang Tha trả diện tích thực đo 1.616m2 đất, số thửa đất cũ 885; tòa án ghi nhận sự hoàn trả 4 cây thốt nốt của vợ chồng ông Nhơn cho gia đình bà Nèang Tha.

Không đồng ý với quyết định của Bản án 10/2023/DS-ST, ngày 30/5/2023 của TAND TX. Tịnh Biên, gia đình bà Nèang Tha kháng cáo vụ việc đến TAND tỉnh. Cơ quan xét xử thực hiện các bước theo quy định, ngày 25/9/2023 ra Văn bản 119/2023/QĐPT-DS quyết định tạm ngừng phiên tòa để xem xét, thẩm định về số cây trồng trên đất tranh chấp do bị đơn Nèang Tha khai bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm.

Luật gia Trần Bửu Tài (Ủy viên Thư ký Hội Luật gia tỉnh) cho biết, theo Bộ luật Dân sự hiện hành, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên xác lập về một giao dịch mà các bên luôn mong được thực hiện. Về tờ sang nhượng đất (ruộng trên) ghi ngày 10/10/2000 cho thấy, ngoài chưa phù hợp về mặt hình thức, dấu vân tay (được cho là của bà Nèang Tha), pháp luật rất cần xác định rõ vì bà không nói, không nghe được tiếng Việt, càng không biết về pháp luật. Mọi giao dịch của bà phải thông qua người phiên dịch; quá trình tố tụng, xét xử vừa qua đã cho thấy rõ điều này.

Dù bà Nèang Tha không mất năng lực hành vi dân sự, nhưng diễn biến sự việc cho thấy, đương sự gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; bị hạn chế về năng lực hành vi dân sự, đặc biệt trong thực hiện giao dịch dân sự nói chung, tham gia ký kết hợp đồng. Tới đây, vụ việc này cơ quan xét xử sẽ có phán quyết, hy vọng không bỏ sót lỗi, không có người bị oan sai.

N.R